Mật Mã Da Vinci

Chương 49 :

Ngày đăng: 01:02 22/04/20


Langdon thán phục. Teabing vừa viết ra xong toàn bộ 22 chữ cái của bảng chữ cái Hebrew - alef-bet - theo trí nhớ. Đành rằng ông đã dùng kí tự La Mã tương đương thay vì chính chữ cái Hebrew, tuy nhiên, giờ đây ông đọc qua chúng với cách phát âm không chút sai sót.



A B G D H V Z Ch T Y K L M N S O P Tz Q R Sh Th "Alef, Belt, Gimel, Dalet, Hei, Vav, Zayin, Chet, let, Yud, Kaf, Lamed, Mem, Nun, Samcch, Ayin, Pel, Tradik, Kuf, Reishs Shin va Tav".



Teabing lau trán và tiếp tục: "Trong chính tả Hebrew chính thức, nguyên âm không được viết ra. Do đó, khi chúng ta dùng chữ cái Hebrew để viết từ Bahome, nó sẽ mất đi ba nguyên âm và chúng ta còn lại…".



"Năm chữ cái", Sophie bật ra.



Teabing gật đầu và bắt đầu viết lại: "Được, đây là Baphomet viết đúng chính tả bằng chữ cái Hebrew. Tôi sẽ phác luôn cả những nguyên âm khuyết diện để cho rõ ràng hơn".



B a P V o M e Th.



"Tất nhiên, hãy nhớ", ông bổ sung thêm, "rằng tiếng Hebrew thường được viết theo chiều hướng ngược, nhưng chúng ta có thể dễ dàng sứ dụng mật mã Atbash theo cách này. Bước tiếp theo, tất cả những gì chúng ta phải làm là tạo ra cách sắp xếp thay thế bằng cách viết lại toàn bộ bảng chữ cái theo trật tự đảo ngược với bảng chữ cái ban đầu".



"Có một cách dễ hơn", Sophie nói, lấy bút từ tay Teabing, nó hiệu nghiệm đối với mọi mật mã thay thế phản chiếu, kể cả mật mã Atbash. Một mẹo nhỏ tôi học được ở Royal Holloway". Sophie viết nửa bảng chữ cái đầu từ trái qua phải, sau đó bên dưới, viết phần còn lại của bảng chữ cái từ phải qua trái. "Người giải mật mã gọi nó là fold-over. Giảm nửa phần phức tạp. Nhưng lại rõ ràng gấp đôi".



A



B



G



D



H



V



Z



Ch



T



Y



K



Th



Sh



R
"Tôi biết. Nó là thứ để đệm lót".



"Cho cái gì? Cho lọ dấm à?".



"Không!" Sophie mờ cuộn giấy ra, để lộ cái gì được gói bên trong. "Cho cái này".



Khi Langdon nhìn thấy vật bên trong cuộn giấy da, tim ông trĩu xuống.



"Chúa hãy giúp chúng ta?". Teabing nói. "Ông cô quả là một kiến trúc sư tàn nhẫn".



Langdon ngỡ ngàng nhìn trăn trối. Mình thấy Saunière không có ý định làm cho điều này dễ dàng.



Một cái ống trụ thứ hai được đặt trên bàn. Nhỏ hơn. Làm bằng mã não đen. Được đặt nằm gọn trong ống thứ nhất. Đam mê của Saunière đối với thuyết nhị nguyên. Hai ống trụ. Mọi thứ đều thành đôi. Nghĩa là nước đôi. Đực - cái. Đen nằm bên trong trắng.



Langdon cảm thấy mạng biểu tượng đang triển khai.



Trắng sinh ra đen.



Tất cả đàn ông đều sinh ra từ đàn bà.



Trắng - đàn bà.



Đen - đàn ông.



Với lấy cái hộp mật mã nhỏ hơn, Langdon nâng nó lên. Nó trông giống hệt cái hộp thứ nhất, ngoại trừ nó chỉ bằng một nửa về kích cỡ, có màu đen. Ông nghe thấy tiếng ùng ục quen thuộc. Có vẻ như cái lọ dấm mà họ đã nghe trước đây nằm bên trong cái ống trụ nhỏ này.



"Tốt, Robert", Teabing nói, đẩy trang giấy da về phía Langdon. "Các bạn sẽ hài lòng khi nghe thấy rằng chí ít chúng ta cũng đang bay đúng hướng".



Langdon xem xét miếng giấy da dày. Đó là bốn câu thơ khác được viết bằng một kiểu chữ hoa mĩ. Lại là thể thơ ngũ bộ iambic. Bài thơ thật bí hiểm, nhưng Langdon chỉ cần đọc câu đầu tiên cũng thấy được rằng kế hoạch của Teabing bay tới Anh là đắc sách.



Ở LONDON YÊN NGHỈ MỘT HIỆP SĨ ĐƯỢC GIÁO HOÀNG MAI TÁNG



Phần còn lại của bài thơ hàm ý rằng mật khẩu để mở cái ống trụ thứ hai có thể được tìm thấy bằng cách đến thăm ngôi mộ của hiệp sĩ này, ở đâu đó trong thành phố.



Langdon náo nức quay về phía Teabing: "Ngài có biết bài thơ này nhắc đến hiệp sĩ nào không?".



Teabing cười: "Tuyệt đối không. Nhưng tôi biết đích xác chúng ta nên tìm ở hầm mộ nào".



Vào lúc đó cách mười lăm dặm, sáu chiếc xe cảnh sát ở Kent phóng rất nhanh trên những con phố ẩm ướt mưa, hướng về phía sân bay Biggin Hill Executive.



------------------------------------------------------