Mật Mã Da Vinci

Chương 58 :

Ngày đăng: 01:02 22/04/20


Langdon không rời mắt khỏi màn hình máy vi tính kể từ khi cuộc tìm kiếm bắt đầu.



Năm phút. Cả hai truy cập. Cả hai đều không phù hợp.



Ông bắt đầu lo lắng.



Pamela Gettum ở phòng bên cạnh, đang chuẩn bị đồ uống nóng. Langdon và Sophie hỏi xin cà phê đi kèm với thứ trà mà Gettum mời, và từ tiếng bíp của lò vi sóng trong phòng bên, Langdon ngờ rằng yêu cầu của họ sẽ được đáp ứng bằng cà phê tan Nescafé.



Cuối cùng, máy tính reo lên hân hoan.



"Nghe như ông đã có được một truy cập nữa", Gettum gọi với sang từ phòng kế bên. "Tiêu đề là gì?".



Langdon nhìn màn hình.



Ngụ ngôn về Chén Thánh trong văn học thời trung cổ:



Một khái luận về ngài Gawain của Hiệp Sĩ Xanh.



"Ngụ ngôn về Hiệp Sĩ Xanh", ông đáp.



Không phù hợp", Gettum nói, "chẳng có mấy người khổng lồ huyền thoại mặc đồ xanh được chôn ở London đâu".



Langdon và Sophie kiên nhẫn ngồi trước màn hình và đợi qua hai kết quả khác còn đáng ngờ hơn. Tuy nhiên, khi máy vi tính lại reng lên, món quà thật bất ngờ.



DIE OPERA VON RICHARD WAGNER



"Opera của Wagner?", Sophie hỏi.



Gettum ngó lại từ khung cửa, tay cầm một gọi cà phê tan. "Có vẻ là một sự kết hợp lạ kỳ. Wagner là một hiệp sĩ phải không?".



"Không", Langdon đáp, cảm thấy một tình tiết dột ngột. "Nhưng ông là thành viên Hội Tam Điểm nổi tiếng. Cùng với Mozart, Beethoven, Shakespeare, Gershwin, Houdini va Disney. Có nhiều tập sách viết về mối quan hệ giữa những thành viên Hội Tam điểm và các Hiệp sĩ Templar, Tu viện Sion, và Chén Thánh. "Tôi muốn xem cái đó. Làm thế nào để xem được toàn văn?".




(2) Đoạn này nhiều thuật ngữ chuyên môn về tin học, một số từ như prelog hay postlog chúng tôi để nguyên vì không có điều kiện tra cứu chính xác, không dám đoán mò. Vả chăng, như ta thấy ở câu sau, chính học giả Langdon cũng không hiểu Gettum nói gì nữa là.



(3) Langdon và Sophie tìm Pope nghĩa là Giáo hoàng mà họ nghĩ là liên quan đến câu thơ "Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng" chứ không tìm Alexander Pope nhà thơ.



(4) Pope là họ của Alexander và cũng có nghĩa là Giáo hoàng, chính sự đồng âm khác nghĩa này đã gây bối rối lầm lẫn trong việc diễn giải câu thơ đầu tiên từ đầu đến giờ.



Silas choàng tỉnh giấc.



Hắn không rõ cái gì đã đánh thức hắn hoặc hắn đã ngủ bao lâu rồi. Phải chăng mình đang mơ. Ngồi dậy trên chiếc chiếu rơm, hắn lắng nghe tiếng thở nhẹ nhàng của sảnh chính ngôi nhà Opus Dei, sự im lặng chỉ bị quấy động bởi tiếng lầm rầm khe khẽ của ai đó đang cầu nguyện trong một phòng bên dưới. Đó là những âm thanh thân thuộc và có thể an ủi hắn.



Tuy nhiên, hắn cảm thấy một sự cảnh giác đột ngột và bất ngờ.



Đứng dậy, chỉ mặc nguyên đồ lót, Silas bước tới cửa sổ. Ban nãy mình có bị bám theo không nhỉ? Cái sân phía dưới vắng teo, hệt như hắn đã thấy nó khi vào đây. Hắn lắng nghe. Tịch lặng. Vậy tạt sao mình lại lo lắng? Đã từ lâu, Silas đã học cách tin vào trực giác của mình. Trực giác đã giữ mạng sống cho hắn khi còn là một đứa trẻ trên đường phố Marseilles trước khi bị bỏ tù… Trước khi hắn được sinh ra một lần nữa nhờ bàn tay của Giám mục Arigarosa. Ngó ra cửa sổ, giờ hắn nhìn thấy lờ mờ dáng nét của một chiếc xe hơi qua hàng rào. Trên nóc xe là một cái còi cảnh sát. Một tấm ván gỗ kêu cót két ở hành lang. Chốt cửa chuyển động.



Silas phản ứng theo bản năng, di chuyển qua căn phòng và dừng lại ngay sau cánh cửa khi nó bị xô mạnh và mở ra. Viên sĩ quan cảnh sát đầu tiên xông vào, lia khẩu súng từ trái sang phải vào chỗ có vẻ như một căn phòng trống không. Trước khi anh ta nhận ra Silas đang đứng đâu, Silas đã dùng vai xô cánh cửa rập mạnh vào viên cảnh sát thứ hai đang lao vào. Khi viên sĩ quan thứ nhất quay lại để bắn, Silas nhào người túm lấy chân anh ta. Súng nổ, viên đạn vèo qua trên đầu Silas, đúng lúc hắn vớ được ống chân viên sĩ quan, kéo mạnh và quật anh ta đập đầu xuống sàn nhà. Sĩ quan cảnh sát thứ hai loạng choạng đứng dậy trong khung cửa và Silas huých đầu gối vào háng anh ta, rồi bước qua cái thân hình đang quằn quại đó để lao ra sảnh lớn.



Gần như trần truồng, Silas lao cái thân hình trắng trợt xuống cầu thang. Hắn biết mình đã bị phản, nhưng bởi ai? Khi hắn tới phòng chờ, nhiều sĩ quan cảnh sát khác đã ập vào qua cửa trước. Silas quay sang hướng khác và lao sâu hơn vào đại sảnh. Lối vào dành cho phụ nữ. Mọi ngôi nhà của Opus Dei đều có một cửa như thế này. Ngoằn ngoèo theo những hành lang hẹp, Silas chạy xuyên một nhà bếp, vượt qua những người làm công hoảng hốt né tránh tên bạch tạng trần như nhộng trong khi hắn va phải bát đĩa và những đồ bạc, lao vào một hành lang tối gần phòng đun nước. Giờ thì hắn đã nhìn thấy cái cửa hắn tìm, một ngọn đèn chỉ lối ra lờ mờ sáng ở cuối đường.



Chạy hết tốc độ qua cửa ra ngoài trời mưa, Silas nhảy khỏi thềm nghỉ thấp, không nhìn thấy người cảnh sát từ đằng kia chạy tới, khi nhận ra thì đã quá muộn. Hai người va vào nhau, bả vai trần to rộng của Silas xô vào xương ức của người kia với sức mạnh nghiền nát. Hắn xô viên cảnh sát ngã ngửa trên vỉa hè, đè mạnh cả người lên anh ta. Khẩu súng của viên sĩ quan lách cách văng ra xa. Silas có thể nghe thấy nhiều người vừa chạy xuôi hành lang vừa kêu to. Lăn mình, hắn chộp lấy khẩu súng bị rơi, đúng lúc đám cảnh sát xuất hiện. Một tiếng súng vang lên tử phía cầu thang, và Silas cảm thấy đau rát phía dưới xương sườn. Tức điên lên, hắn nổ súng vào cả ba cảnh sát, máu của họ bắn tung toé.



Một bóng đen lờ mờ phía sau, không biết tử đâu tới. Đôi bàn tay giận dữ túm lấy đôi vai trần của hắn như thể được truyền sức mạnh của chính quỷ Satan. Người đó hét vào tai hắn.



SILAS, KHÔNG!



Silas quay lại và bóp cò. Mắt của họ gặp nhau. Silas kêu lên kinh hãi khi Giám mục Arigarosa ngã xuống.



--------------------------------------------------------------------------------



------------------------------------------