Mật Mã Da Vinci

Chương 62 :

Ngày đăng: 01:02 22/04/20


Đó và là lúc chiều muộn khi mặt trời London đột hiện và thành phố bắt đầu khô ráo. Bezu Fache cám thấy mệt mỏi khi ra khỏi phòng thẩm vấn và gọi một chiếc xe taxi. Ngài Leigh Teabing vẫn la lối tuyên bố mình vô tội, tuy nhiên, qua những lời huyên thiên đầu ngô mình sớ của ông ta về Chén Thánh, về các tài liệu bí mật, và các hội kín, Fache ngờ rằng nhà sử học xảo trá này đang dàn cảnh cho các luật sư của mình viện cớ thân chủ bị mất trí để bào chữa.



Chắc chắn thế. Fache nghĩ. Mất trí. Teabing đã tỏ ra chính xác một cách tài tình trong việc xây dựng một kế hoạch bảo vệ sự vô tội của ông ta trong từng bước đi. Ông ta đã khai thác cả Vatican và Opus Dei, hai nhóm hoá ra hoàn toàn vô tội. Công việc bẩn thỉu của ông ta đã được một thầy tu cuồng tín và một vị giám mục tuyệt vọng tiến hành một cách vô tri giác. Thông minh hơn nữa, Teabing đã đặt trạm điện tử nghe lén ở chỗ duy nhất mà một người mắc căn bệnh bại liệt không thể nào tới được.



Thực tế việc theo dõi do người hầu của ông ta đảm nhiệm, Rémy - ngưởi duy nhất biết nhân thân thực sự của Teabing - giờ đây đã chết một cái chết thật gọn vì một ca dị ứng.



Khó có thể là công trình của một người thiểu năng trí tuệ, Fache nghĩ.



Thông tin từ Collet tại Château Villete cho thấy mưu mô của Teabing thâm sâu đến nỗi chính Fache cũng có thể học hỏi từ đó. Để giấu được "rệp" vào một số cơ quan quyền lực nhất ở Paris, nhà sử học Anh đã làm theo cách những người Hy Lạp.



Những con ngựa thành Troa. Một vài trong số những mục tiêu dự tính của Teabing đã nhận được những món quà cực kỳ đắt tiền là các tác phẩm nghệ thuật, những người khác thì lại được trả giá mà không hay biết trong các cuộc bán đấu giá mà Teabing đã đặt những lô đặc biệt. Trong trường hợp của Saunière, ông phụ trách bảo tàng đã nhận được một lời mời ăn tối ở Château Villette để bàn về khả năng Teabing sẽ tài trợ một cánh mới dành riêng cho Da Vinci ở bảo tàng Louvre. Thiếp mời Saunière có một dòng tái bút vô hại bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với một hiệp sĩ rô-bốt nghe nói do Saunière chế tác. Hãy mang chàng tới. Teabing gợi ý. Hình như Saunière đã làm đúng như vậy và để chàng hiệp sĩ đơn độc một mình khá lâu, đủ để cho Rémy Legaludec thêm vào một bộ phận do thám kín đáo.



Bây giờ, ngồi ở ghế sau của taxi, Fache nhắm mắt lại. Thêm một điều phải làm trước khi mình trở về Paris.



***



Phòng hồi sức của bệnh viện St. Mary tràn ngập ánh nắng.



"Cha đã khiến tất cả chúng con ngạc nhiên", cô y tá nói, mỉm cười với ông. "Đúng là phép thần kỳ".



Giám mục Aringarosa nớ một nụ cười yếu ớt: "Cha luôn được phù hộ mà".



Cô y tá ngừng làm việc vặt, để vị giám mục được yên. Ánh mặt trời sưởi ấm mặt ông, thật dễ chịu. Đêm qua là đêm đen tối nhất đời ông.



Buồn bã, ông nghĩ đến Silas, xác hắn đã được tìm thấy trong công viên.



Hãy tha thứ cho ta, con trai.



Aringarosa đã ao ước Silas có phần trong kế hoạch vinh quang của mình. Tuy nhiên, đêm qua, Aringarosa đã nhận được một cuộc gọi của Bezu Fache, cật vấn ông về mối quan hệ rõ ràng là có giữa ông với một nữ tu sĩ bị giết ở Saint-Sulpice.



Aringarosa nhận ra rằng buổi tối hôm qua đã lái theo một bước ngoặt khủng khiếp. Tin tức về bốn vụ giết người nữa đã biến nỗi kinh hoàng của ông thành đau đớn. Silas, ngươi đã làm gì vậy! Không liên lạc được với Thầy Giáo, Giám mục biết mình đã bị bỏ rơi. Bị lợi dụng. Cách duy nhất để chặn đứng chuỗi sự kiện hãi hùng đó là thú nhận tất cả với Fache và từ lúc đó trở đi, Aringarosa và Fache đã chạy đua để bắt kịp được Silas trước khi Thầy Giáo thuyết phục hắn tiếp tục giết người.



Cảm thấy xương cốt rã rời, Aringarosa nhắm mắt lại và nghe tivi đưa tin về việc bắt giữ một Hiệp sĩ người Anh nối tiếng, Ngài Leigh Teabing. Thầy Giáo đã phanh phui cho tất cả mọi người thấy. Teabing đã ngửi thấy được kế hoạch của Vatican định tách khỏi Opus Dei. Ông ta đã chọn Aringarosa làm một con tốt đen hoàn hảo trong kế hoạch của mình. Xét cho cùng, ai là người dễ bề lao theo Chén Thánh mù quáng hơn một người ở thế được ăn cả, ngã về không như ta? Chén Thánh sẽ mang quyền to lớn cho ai sở hữu nó.



Leigh Teabing đã bảo vệ nhân thân của mình một cách ranh ma - giả giọng Pháp, vờ ngoan đạo, đòi trả nhiều tiền - thứ duy nhất mà ông ta không cần. Aringarosa quá háo hức nên không nghi ngờ gì. Cái giá đặt là hai mươi triệu euro không đáng kể lắm nếu so với phần thưởng là có được Chén Thánh và với số tiền do Vatican trả để tách khỏi Opus Dei, phần tài chính đã có hiệu quả tốt. Người mù thì chỉ thấy những gì họ luôn thấy. Sự xúc phạm tối hậu của Teabing dĩ nhiên là việc đòi trả bằng hối phiếu của Vatican, để nếu có gì trục trặc thì cuộc điều tra sẽ dẫn đến Roma.



"Tôi rất vui thấy cha bình phục, thưa Đức Cha".



Aringarosa nhận ra cái giọng cộc cằn vang lên từ cửa phòng, nhưng còn bộ mặt thì ngoài sự chờ đợi - nghiêm khắc, nét thô khỏe, tóc chải lật ra sau và cổ to bạnh ra trên nền bộ đồ màu đen. "Đại uý Fache?" Aringarosa hỏi. Lòng thương cảm và quan tâm mà viên đại uý tỏ ra với tình cảnh của Aringarosa đêm qua khiến ông hình dung ra một ngoại hình tao nhã hơn thế này nhiều.



Viên đại uý tiến lại gần giường và nhấc một chiếc cặp số đen nặng quen thuộc đặt lên ghế: "Tôi tin rằng cái này thuộc về cha".



Aringarosa nhìn cái cặp số đầy ắp hối phiếu và ngay lập tức ngoảnh đi, lòng chỉ cảm thấy xấu hổ. "Vâng… cám ơn ông".



Ông dừng lại một chút trong khi các ngón tay sờ lần các đường may của khăn trải giường, rồi nói tiếp. "Đại uý, tôi đã suy nghĩ rất kĩ và tôi cần xin ông một ân huệ".



"Tất nhiên".



Gia đình của những người ở Paris mà Silas…", ông dừng lại nén xúc cảm. "Tôi hiểu không khoản tiền nào có thể đủ để bù đắp những mất mát của họ, tuy nhiên, xin ông làm ơn chia các thứ trong chiếc cặp này cho họ… gia đình của những người đã chết".



Đôi mắt đen của Fache nhìn Aringarosa hồi lâu: "Một cử chỉ đức độ thưa Đức Cha. Tôi sẽ lo lỉệu để ước nguyện của cha được thực hiện".



Im lặng nặng nề giữa hai người.



Trên tivi, một sĩ quan cảnh sát Pháp gày mảnh đang họp báo ngay trước tòa nhà dài rộng. Fache nhận ra anh ta và hướng sự chú ý lên màn hình.



"Trung uý Collet", một phóng viên đài BBC nói, giọng lên án, "đêm qua, đại uý của các ông đã công khai khép hai người vô can vào tội giết người. Liệu Robert Langdon và Sophie Neveu có đòi sở cảnh sát các ông phải chịu trách nhiệm không? Liệu điều đó có làm Đại uý Fache mất việc không?".



Nụ cười của trung uý Collet mệt mỏi nhưng điềm tĩnh: "Kinh nghiệm của tôi cho rằng đại uý Bezu Fache hiếm khi phạm sai lầm. Tôi chưa nói với Đại uý về chuyện này, nhưng vốn biết phương cách hành động của ông, tôi ngờ rằng việc truy tìm công khai nhân viên Neveu và ông Langdon nằm trong mưu kế của ông nhằm dụ tên giết người thật sự ra mặt".



Các phóng viên nhìn nhau ngạc nhiên.



Collet nói tiếp: "Liệu ông Langdon và nhân viên Neveu có tự nguyện tham gia kế sách này hay không, tôi không rõ. Đại uý Fache có khuynh hướng giữ kín những phương pháp sáng tạo của mình. Tất cả những gì tôi có thể khẳng định vào thời điểm này là đại uý đã bắt được kẻ gây án, và cả ông Langdon lẫn nhân viên Neveu đều vô tội và an toàn".



Fache nở nụ cười yếu ớt khi quay về phía Aringarosa: "Một người tốt, cái anh chàng Collet đó".



Nhiều giây trôi qua. Cuối cùng, Fache vuốt trán, vuốt tóc ra sau, nhìn xuống Aringarosa: "Thưa Đức Cha, trước khi tôi trở về Paris, có một vấn đề cuối cùng tôi muốn bàn với cha: chuyến bay đột xuất của cha về London. Cha đã đút lót cho viên phi công để thay đổi lịch trình. Làm như vậy, cha đã vi phạm một số luật quốc tế, Aringarosa suy sụp: "Tôi đã tuyệt vọng".



"Phải. Giống như viên phi công khi anh ta bi người của tôi thẩm ấn". Fache móc túi lấy ra một chiếc nhẫn bằng thạch anh tím gắn cây gậy phép quen thuộc.



Anngarosa cảm thấy trào nước mắt khi nhận chiếc nhẫn và đeo nó trở lại vào ngón tay. "Ông thật quá tốt". Ông chìa tay nắm chặt tay Fache, "cám ơn".



Fache phẩy tay từ chối cử chỉ đó, tiến về phía cửa sổ và nhìn ra thành phố, rõ ràng đang nghĩ tận đâu đâu. Khi quay lại, ông ta có một vẻ gì phân vân: "Thưa Đức Cha, rồi đây cha sẽ đi đâu?".



Aringarosa cũng được hỏi một câu đúng như vậy khi ông rời Castel Gandolfo đêm trước: "Tôi ngờ rằng con đường của tôi cũng không chắc chắn như của ông".



"Vâng", Fache dừng lời, "tôi nghĩ tôi sẽ nghỉ hưu sớm".



Aringarosa mỉm cười: "Một chút niềm tin cũng có thể làm nên những điều kì diệu, đại uý ạ? Một chút niềm tin thôi".



Nhà thờ Rosslyn - thường được gọi là Cathedral of Codes -



Nhà thờ của những mật mã - cách Edinburgh, Scotland, bảy dặm về phía nam, trên nền cũ của một ngôi đền Mithre cổ. Do các Hiệp sĩ Templar xây vào năm 1446, nhà thờ được chạm khắc cả một loạt kỳ thú các biểu tượng từ những truyền thống Do Thái, Cơ đốc, Ai Cập, Hội Tam Điểm và ngoại đạo.



Tọa độ địa lý của nhà thờ nằm chính xác trên kinh tuyến Bắc - Nam chạy qua Glastonbury. Đường kinh tuyến Rose Line (Đường Hồng) là mốc truyền thống đánh dấu đảo Avalon của vua Arthur và được coi là cột trụ trung tâm của hình thiêng nước Anh. Chính chữ Rose Line thánh hóa này là xuất xứ của cái tên Rosslyn - thoạt đầu viết là Roslin.



Những chóp tháp gồ ghề của Rosslyn vẫn đang đổ bóng dài trong chiều khi Robert Langdon và Sophie Neveu lái chiếc xe thuê vào bãi đậu xe rậm cỏ ở chân gò nơi nhà thờ toạ lạc.



Chuyến bay ngắn của họ từ London đến Edinburgh rất thoải mái, mặc dù không ai ngủ được do nghĩ đến những gì đang chờ đợi ở phía trước. Nhìn lên toà nhà ảm đạm in bóng trên nền trời đầy mây, Langdon cảm thấy mình như Alice rơi cắm đầu xương hang thỏ. Đây hẳn là một giấc mơ. Tuy nhiên ông biết văn bản bức thông điệp cuối cùng của Saunière không thể cụ thể hơn.



Chén Thánh chờ bên dưới Roslin cổ.



Langdon đã mường tượng sơ đồ Chén Thánh của Saunière sẽ là một biểu đồ - một bản vẽ với chữ X đánh dấu - tuy nhiên, bức màn bí mật cuối cùng của Tu viện Sion mới chỉ được vén lên theo cùng một cách Saunière đã dùng từ đầu. Thơ mộc mạc. Bốn câu rành mạch chỉ đúng điểm này không còn ngờ gì nữa. Cộng với việc chỉ đích danh Rosslyn, đoạn thơ còn nhắc tới vài đặc điểm kiến trúc nổi tiếng của nhà thờ.



Mặc dù tiết lộ cuối cùng của Saunière thật rõ ràng, Langdon vẫn cảm thấy dao động hơn là sáng tỏ. Với ông, nhà thờ Rosslyn dường như là một địa điểm quá hiển nhiên. Trong nhiều thế kỉ, nhà thờ đá này đầy những lời xì xào về sự hiện diện của Chén Thánh. Những lời xì xào đã trở nên ầm ĩ trong những thập kỉ gần đây khi hệ thống rada xuyên đất phát hiện là bên dưới nhà thờ có một công trình kiến trúc kỳ lạ - một hầm ngầm đồ sộ. Khoang hầm sâu này không những lớn hơn nhà thờ bên trên nhiều, mà hình như còn kín bưng, không có cửa vào cũng chẳng có lối ra. Các nhà khảo cổ kiến nghị cho nổ xuyên nền đá để vào được khoang hầm bí hiểm, nhưng Tập đoàn Rosslyn dứt khoát cấm bất kì sự khai quật nào tại nơi linh thiêng này. Tất nhiên, điều này chỉ càng làm bùng thêm ngọn lửa suy đoán. Tập đoàn Rosslyn đang cố giấu điều gì?



Rosslyn đã trờ thành điểm hành hương cho những kẻ tìm kiếm sự bí ẩn. Một số người khẳng định rằng họ bị hút tới đây bởi một từ trường rất mạnh phát xuất một cách không thể giải thích nổi từ những tọa độ này, số khác lại tuyên bố rằng họ đến khảo sát sườn đồi để tìm cho ra lối vào bị che giấu của hầm ngầm, nhưng đa số thừa nhận họ đến đây đơn giản chỉ để lang thang trên vùng đất này và hấp thụ vào lòng những truyền thuyết về Chén Thánh.



Mặc dù trước nay, Langdon chưa tửng tới Rosslyn, ông vẫn luôn cười tủm khi nghe người ta mô tả nhà thờ này như là nơi hiện đặt Chén Thánh. Phải thừa nhận, Rosslyn có thể đã từng là nơi đặt Chén Thánh, lâu lắm rồi… nhưng chắc chắn nay không còn nữa. Quá nhiều sự chú ý đã dồn vào Rosslyn trong nhiều thập kỉ qua, và sớm muộn, cũng sẽ có người tìm ra đường để đột nhập vào căn hầm.



Những học giả chân chính về Chén Thánh nhất trí rằng Rosslyn là một cái mồi nhử - một trong những ngõ cụt quanh co do Tu viện Sion bày đặt một cách dầy thuyết phục. Tuy nhiên, tối nay, với viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion cùng bài thơ chỉ thẳng đến nơi này, Langdon không còn cảm thấy quá tự mãn nữa. Một câu hỏi phức tạp đã ám ảnh tâm trí ông cả ngày:



Tại sao Saunière lại phải tốn công sức đến như thế để chỉ dẫn chúng ta đến một nơi rành rành như vậy?



Xem ra chỉ có một câu trả lời hợp lý duy nhất.



Có điều gì đó mà chúng ta vẫn chưa hiểu.



"Robert?", Sophie đang đứng ngoài xe, quay lại nhìn ông.



"Anh có định vào không?" Cô đang cầm hộp gỗ hồng mộc mà đại uý Fache đã trả lại cho họ. Bên trong, cả hai hộp mật mã đã được lắp ráp lại và nằm gọn như khi chúng được tìm thấy. Bài thơ viết trên giấy sậy papyrus được cất an toàn tận trong lõi của nó - trừ lọ dấm đã bị vỡ.



Đi lên con đường dài rải sỏi, Langdon và Sophie qua bức tường nồi tiếng phía tây của nhà thờ. Khách vãng lai cho rằng bức tường chòi ra khác thường ấy là một phần của nhà thờ chưa được hoàn tất. Sự thực, Langdon nhớ lại, nó còn gây tò mò hơn thế.




Lúc này, nét mặt bà trở nên nghiêm trang: "Ông Langdon, nể tình những gì ông đã làm cho tôi tối nay, và với tư cách là người phụ trách Tập đoàn Rosslyn, tôi có thể nói với ông một cách chắc chắn rằng Chén Thánh không còn ở đây nữa".



Langdon quyết định gặng thêm: "Nhưng chức năng cúa viên đá đỉnh vòm là chỉ ra nơi ẩn giấu hiện tại của Chén Thánh cơ mà. Tại sao nó lại chỉ tới Rosslyn?".



"Có thể ông đang đọc sai nghĩa của nó. Nên nhớ rằng Chén Thánh có thể làm người ta lầm lẫn. Như là chồng tôi đã nhầm".



"Nhưng ông ấy còn có thể rõ ràng cụ thể hơn đến đâu nữa?".



Langdon hỏi. "Chúng ta đang đứng bên trên một hầm ngầm được đánh dấu bởi lưỡi dao và cái ly, dưới một trần nhà đầy sao, bao quanh bởi nghệ thuật của những Thợ Cả của Hội Tam điểm. Tất thảy đều nói về Rosslyn".



"Thôi được, để tôi xem đoạn thơ huyền bí này đã". Bà giở tờ giấy papyrus ra và đọc to đoạn thơ bằng một giọng khoan thai.



Chén Thánh chờ bên dưới Roslin cổ.



Lưỡi dao và chiếc ly canh cửa vào.



Điểm tô bằng nghệ thuật đằm thắm của các bậc thầy.



Cuối cùng Chén nằm an nghỉ dưới bầu trời đầy sao.



Đọc xong, bà đứng im vài giây, cho đến khi một nụ cười thông hiểu nở trên môi bà: "Ôi, Jacques".



Langdon nhìn bà chờ đợi: "Bà hiểu bài thơ này chứ ạ?".



"Như ông đã chứng kiến trên sàn nhà thờ, ông Langdon, có nhiều cách nhìn những điều đơn giản".



Langdon cố sức để hiểu. Mọi thứ về Jacques Saunière dường như đều có hai nghĩa, và Langdon chưa thể nhìn thấy được xa hơn.



Marie ngáp một cách mệt mỏi: "Ông Langdon, tôi sẽ thú nhận với ông một điều. Tôi chưa bao giờ chính thức được biết Chén Thánh hiện đang ở đâu. Nhưng, tất nhiên, tôi đã lấy một người có ảnh hưởng rộng lớn… và cái trực giác phụ nữ của tôi là rất nhạy".



Langdon định nói nhưng Marie đã tiếp tục: "Tôi lấy làm tiếc là sau bao khó nhọc, ông sẽ phải rời Rosslyn mà chẳng được câu trả lời thực sự nào. Tuy nhiên một cái gì đó mách bảo tôi rằng, rốt cuộc ông sẽ có được điều ông tìm kiếm. Một ngày nào đó nó sẽ bắt hé lộ với ông". Bà mỉm cười. "Và khi đó, tôi tin rằng ông… có thể giữ bí mật".



Có tiếng ai đó tới cửa: "Cả hai người đều biến mất", Sophie nói rồi đi vào.



"Ta định đi đây", người bà đáp lại và đi tới chỗ Sophie đang đứng ở cửa. "Ngủ ngon nhé, công chúa". Bà hôn lên trán Sophie. "Đừng để ông Langdon ở bên ngoài quá khuya nhé".



Langdon và Sophie nhìn bà đi trở về phía ngôi nhà đá. Khi Sophie quay lại phía ông, mắt cô ướt đẫm trong niềm xúc động sâu xa: "Không hẳn là cái kết cục mà tôi mong đợi".



Điều đó tạo nên hai chúng ta, ông nghĩ. Langdon có thể thấy cô tràn ngập xúc động. Cái tin cô nhận được tối nay đã thay đổi mọi thứ trong cuộc đời cô. "Cô ổn chứ? Có quá nhiều điều để tiếp nhận".



Cô mỉm cười lặng lẽ: "Tôi có một gia đình. Đó là điểm xuất phát sắp tới của tôi. Chúng ta là ai và chúng ta từ đâu tới, trả lời câu hỏi này cũng sẽ mất chút thời gian đấy".



Langdon im lặng.



Ngoài buổi tối nay, anh có ở với chúng tôi nữa không?.



Sophie hỏi. "Ít nhất là một vài ngày chứ?".



Langdon thở dài, chẳng muốn gì hơn nữa. "Cô cần ở đây với gia đình một thời gian, Sophie ạ. Tôi sẽ về Paris vào sáng mai".



Cô có vẻ thất vọng nhưng dường như biết làm thế là phải.



Hồi lâu, cả hai đều chẳng nói gì. Cuối cùng Sophie với tay ra nắm lấy tay Langdon và dẫn ông ra khỏi nhà thờ. Họ tới một gò nhỏ trên đầu dốc. Từ đây, vùng quê Scotland trải ra trước mắt họ, tràn ngập ánh trăng nhợt nhạt lọc qua những đám mây lang thang. Họ đứng lặng lẽ, nắm tay nhau, cả hai đều đang chống lại cơn mệt rã rời như một tấm màn đang chụp xuống.



Sao mới chỉ lác đác xuất hiện, nhưng ở phía tây, một điểm sáng đơn lẻ bừng sáng hơn tất cả. Langdon mỉm cười khi nhìn thấy nó. Đó là Sao Kim. Nữ thần cổ xưa đã chiếu xuống Trái đất ánh sáng kiên định và nhẫn nại của mình.



Đêm trở nên lạnh hơn, một làn gió khô lạnh cuộn lên tử mặt đất Langdon nhìn sang Sophie. Đôi mắt cô nhắm lại, đôi môi thư thái nở một nụ cười mãn nguyện. Langdon cảm thấy mắt mình nặng trĩu. Miễn cưỡng, ông bóp mạnh tay cô: "Sophie?".



Cô từ từ mở mắt và quay sang ông. Dưới ánh trăng, mặt cô thật đẹp. Cô mỉm cười với ông, vẻ buồn ngủ: "Xin chào".



Langdon cảm thấy một nỗi buồn bất ngờ khi nhận ra rằng ông sẽ quay về Paris mà không có cô: "Có lẽ tôi sẽ đi trước khi cô dậy". Ông dừng lại, cổ tắc nghẹn. "Xin lỗi, em không giỏi lắm về…".



Sophie với ra, đặt bàn tay mềm mại lên một bên mặt ông.



Rồi rướn người, âu yếm hôn má ông. "Bao giờ tôi lại có thể gặp lại anh?".



Trong thoáng chốc, Langdon lảo đảo, lạc trong mắt cô: "Bao giờ nhỉ?", ông dừng lại, rất muốn biết liệu cô có hiểu là chính ông cũng tự hỏi như thế với bao trăn trở. "À, thực ra, tháng tới tôi sẽ thuyết trình tại một hội nghị ở Florence. Tôi sẽ ở đó một tuần, chẳng có mấy việc để làm".



"Đó là một lời mời?".



"Chúng ta sẽ sống trong xa hoa. Họ dành cho tôi một phòng ờ Brunelleschi".



Sophie mỉm cười tinh nghịch: "Ngài mạo muội quá đấy, ngài Langdon".



Ông co rúm người không biết mình đã thất thố tới mức nào: "Ý của tôi là…".



"Em không mong gì hơn là được gặp anh ở Florence, Robert.



Nhưng mà với một điều kiện", giọng cô chuyển sang nghiêm túc "không bảo tàng, không nhà thờ, không lăng mộ, không nghệ thuật, thánh tích gì hết".



"Ở Florence? Cả một tuần? Chẳng có gì khác để làm".



Sophie ngả người ra trước và lại hôn ông, lần này lên môi.



Thân thể họ hòa vào nhau, đầu tiên là nhẹ nhàng, rồi sau đó trọn vẹn. Khi buông ra, đôi mắt cô tràn đầy hứa hẹn.



"Phải", Langdon thết được nên lời, "đây là một cuộc hẹn".



Đoạn kết Robert Langdon giật mình tỉnh dậy. Ông vừa trải qua một giấc mơ. Chiếc áo choàng tắm cạnh giường ngủ có in hình chữ lồng Khách sạn Ritz - Paris. Ông thấy ánh sáng lờ mờ lọc qua mành. Bình minh hay hoàng hôn đây nhỉ, ông tự hỏi.



Langdon cảm thấy toàn thân ấm áp và thỏa mãn sâu sắc. Ông đã ngủ phần lớn thời gian trong hai ngày qua. Chậm rãi ngồi dậy trên giường, ông nhận ra điều gì đã đánh thức ông… một ý nghĩ hết sức kì lạ. Suốt nhiều ngày, ông đã cố gắng sắp xếp phân minh cả một mớ thông tin, nhưng bây giờ Langdon nhận thấy mình đã cố định được một điều mà trước đó ông không hề xét đến.



Có thể là thế không?



Ông ngồi nguyên không động đậy hồi lâu.



Ra khỏi giường, ông đi tới phòng tắm lát đá hoa. Bước vào, ông để những tia nước mạnh xoa bóp bờ vai. Ý nghĩ nọ vẫn làm ông say mê.



Không thể thế được.



Hai mươi phút sau, Langdon ra khỏi khách sạn Ritz đến Quảng trường Vendome. Đêm đang buông xuống. Những ngày ngủ làm ông mất phương hướng… Ấy vậy mà trí óc ông lại sáng suốt lạ lùng. Ông đã định bụng dừng lại ở sảnh khách sạn, uống tách cà phê sữa cho tỉnh táo, nhưng thay vì điều đó, đôì chân cứ đưa thẳng ông ra cửa để hoà vào cuộc sống ban đêm ở Paris.



Xuôi về phía đông trên phố Petits Champs, Langdon cảm thấy sự phấn chấn tăng lên. Ông quay về phía nam trên phố Richelieu, nơi không khí trở nên dịu ngọt với hương hoa nhài toả ra từ những khu vườn uy nghi của Cung điện Hoàng gia.



Ông tiếp tục đi về phía nam cho đến khi thấy cái mà ông đang tìm kiếm - hành lang thương mại Hoàng gia nổi tiếng - một vùng long lanh lát đá cẩm thạch đen bóng loáng. Bước đi trên đó, Langdon rà soát bề mặt dưới chân mình. Chỉ trong vài giây, ông đã tìm thấy điều mà ông biết có ở đây - mấy hình huy chương đồng lớn gắn chặt dưới nền theo một đường thẳng hoàn hảo. Mỗi chiếc đĩa có đường kính khoảng 8 cm và được khắc nổi hai chữ N và S.



Nod. Sud.(1)



Ông quay về phía nam, lia mắt kéo dài đường thắng tạo nên bởi những hình huy chương. Ông lại bắt đầu di chuyển theo vệt đường ấy, vừa đi vừa quan sát vỉa hè. Khi ông cắt ngang góc phố Comedie-Francaise, một hình huy chương đồng khác nổi lên dưới chân ông. Đúng rồi!



Những đường phố Paris - điều này Langdon đã biết từ nhiều năm trước - được đánh dấu bằng 135 hình huy chương đồng như thế, gắn trên những lề đường, sân và phố, theo một trục bắc - nam xuyên suốt thành phố. Một lần ông từng theo đường vạch này từ nhà thờ Sacre-Coeur, phía bắc bên kia sông Seine và cuối cùng tới một đài Thiên văn cổ ở Paris. Ở đó, ông phát hiện được ý nghĩa của c