Mật Mã Tây Tạng

Chương 235 : Kết thúc bằng một tấm ảnh - nhìn em một lần đi

Ngày đăng: 19:02 20/04/20




Bọn lính đánh thuê vẫn lăm lăm tay súng, bấy giờ mới phát hiện kẻ chủ sự của mình đã chạy mất, còn đang dáo dác nhìn quanh không biết phải làm sao, cả tòa tháp hình trứng đã rung lên bần bật, mặt đất chấn động càng lúc càng mạnh. Chợt có tên hét lớn: "Xem kìa!" Chỉ thấy ở trung tâm Mạn Đà La, quả trứng vàng đã tan chảy, đài sen bên dưới đang phun một thứ vật chất đỏ rực, hệt như pháo hoa ngày Tết nhưng lại có nhiệt độ cực cao. Không ai là không nhận ra, đó chính là dung nham núi lửa đang phun trào.



Lấy hố phun trào đó làm trung tâm, Mạn Đà La đang từ từ tan chảy. Cái hố càng lúc càng lớn, dung nham phun lên càng lúc càng nhiều, bọn lính đánh thuê đến thời điểm này mới trở nên hoảng loạn, chẳng còn để ý gì đến mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba nữa, nháo nhác chạy ùa lên bậc thang xoắn ốc.



Trác Mộc Cường Ba bước xuống khỏi đống kinh sách, gã nhớ rất rõ ràng, vừa nãy khi Đường Thọ tung ra hai cú đấm chí mạng đó, đã có hai bóng người đỡ đòn thay cho gã. Gã vòng sang phía bên kia Mạn Đà La, chỉ thấy Đường Mẫn, à không, phải nói là Fusaki và Lữ Cánh Nam, một người nằm ở góc tường, một người gục xuống đống kinh sách, cách nhau khoảng bốn năm chục mét, đều không gượng dậy nổi.



Một cảm giác lạnh lẽo chảy tràn trong lòng Trác Mộc Cường Ba, không, không thể nào! Gã đột nhiên tăng tốc, chạy tới chỗ Lữ Cánh Nam. Muốn tới chỗ cô, gã nhất thiết phải chạy qua bên cạnh Fusaki. Trác Mộc Cường Ba dằn lòng, nghiến răng, lặng lẽ bước qua người Fusaki, đang định đi tiếp, chợt bị Fusaki tóm lấy một ống quần. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, thở dài nói: "Cô Fusaki…"



"Không…" Giọng nói yếu ớt của Đường Mẫn vang lên, "gọi em… gọi em là Mẫn Mẫn!"



m thanh ấy thật thân thuộc biết bao, Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng không ghìm lòng được, mở mắt ra nhìn Mẫn Mẫn. Gã vừa ngoảnh đầu lại liền trông thấy đôi mắt trong veo ấy, nước mắt lấp lánh, thực sự đáng thương vô cùng. Vốn dĩ, ánh mắt ấy sao mà giống đến thế, sao mà khiến gã hoài niệm đến thế, nhưng lúc này, tự sâu trong đáy lòng Trác Mộc Cường Ba chợt trào lên một thứ cảm giác chán ghét! Ngụy trang, giả dối, đều là giả dối!



"Cường Ba… " Trác Mộc Cường Ba định hất tay Mẫn Mẫn ra, sải chân bước tiếp, nhưng Mẫn Mẫn lại kêu lên một tiếng. Lúc này, cô thậm chí còn không đủ sức ngẩng mặt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, đầu cô ngoẹo xuống trước ngực, hai mắt mở to, lệ nóng tuôn tràn chảy dọc xuống theo gò má. Trác Mộc Cường Ba thầm run lên, không phải Mẫn Mẫn đang ngụy trang, cô bẩm sinh đã có đôi mắt ấy. Có lẽ, nếu không sở hữu đôi mắt ấy, cô cũng không ở nơi này, không phải trải qua tất cả những chuyện này. "Tha thứ cho em…" Đây là câu nói cuối cùng của cô.



Trác Mộc Cường Ba lại nhắm mắt lại. Vừa nhắm mắt, gã liền nhìn thấy Trương lập đang nằm bẹp trên giường bệnh, nhìn thấy Nhạc Dương chao đảo rơi xuống như cánh bướm tả tơi, nhìn thấy Đường Thọ đứng sững dưới ánh chiều tà, thấy pháp sư Tháp Tây đang nhoẻn cười hiền hậu, thậm chí cả Sean…, chỉ một chữ "được" mà gã không sao thốt thành lời.



Khi Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra lần nữa, gã phát hiện bàn tay tóm lấy ống quần mình của Mẫn Mẫn đã ẻo lả rũ xuống, cô dựa người vào góc tường, đầu gục xuống trước ngực, hai mắt mở to, trên gương mặt, lệ vẫn chưa khô.



Trác Mộc Cường Ba nấc nghẹn nơi cổ họng, gã vuốt mắt cho Mẫn Mẫn, đặt cô nằm thẳng, rồi không chần chừ thêm nữa, chạy vội tới bên cạnh Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam cũng nghiêng người dựa vào đống kinh sách, không cử động được, tư thế cô lúc này rất giống với pháp sư Á La lúc trút hơi thở cuối cùng. Thấy Trác Mộc Cường Ba chạy tới, cô khẽ mỉm cười. Khóe miệng Trác Mộc Cường Ba nhích động, cũng rặn ra một nụ cười. Đứng trước mặt Lữ Cánh Nam, gã đột nhiên không biết nên nói gì nữa, gã không biết Mật tu giả là một nhóm người như thế nào, gã không biết giữa gia tộc mình và Mật tu giả có quan hệ gì, gã cũng không biết cái gì gọi là ký chủ, cái gì gọi là kẻ sống gửi, gã không biết gì cả! Cho đến hôm nay, có người đột nhiên nói với gã, Lữ Cánh Nam, là người bảo vệ gã, là người khi gã gặp nguy hiểm đến tính mạng, có thể sẵn sàng hy sinh mình để bảo đảm an toàn cho gã. Cô, chẳng lẽ, người phụ nữ này vẫn luôn ngấm ngầm ở trong bóng tối trông chừng cho gã hay sao? Rốt cuộc đã bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm? Bốn mươi năm?



Gã đột nhiên thấy mình trở lại đêm lạnh lẽo ấy, hoa tuyết bay đầy trời, chỉ có hai người, một cô gái đang thấp giọng khe khẽ hát: "Nhìn em một lần đi, chớ để hồng nhan ôm gối chiếc, tuổi xuân không hối tiếc, người yêu suốt đời ơi…"



Cô không phải đang hát, cô đang thổ lộ tiếng lòng!



Dưới ánh chiều tà, bóng hình yểu điệu chỉ ở phía xa ngước lên nhìn, từ từ trùng lắp với hình ảnh Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba bất giác hồi tưởng lại, ba năm nay, Lữ Cánh Nam đã làm gì cho gã? Còn bản thân gã thì sao, đã làm những gì cho cô! Yêu cầu duy nhất của cô, chỉ là hy vọng gã có thể nhìn thẳng cô một lần, không còn né tránh ánh mắt cô nữa…



Đã nói sẽ không bao giờ rơi lệ nữa, tại sao, chất lỏng nóng hổi ấy vẫn tràn ra khỏi khóe mắt, chảy qua cánh môi run run đưa đến cảm giác ẩm ướt mặn đắng. Trái tim gã chua xót, trái tim ấy cũng đang rơi lệ!



Đàn ông chỉ đổ máu chứ không rơi lệ, Trác Mộc Cường Ba ngước đôi mắt đẫm nước lên, cuối cùng cũng dám nhìn thẳng vào Lữ Cánh Nam. Cô đang lặng lẽ nằm giữa đống kinh sách, hai tay úp trên bụng, mái tóc dài xõa tung ra như nàng công chúa trong truyện cổ tích. Lữ Cánh Nam thật sự rất xinh đẹp.



Lữ Cánh Nam im lặng ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, cô đã chăm chú nhìn gã như vậy không biết bao nhiêu năm rồi, từ khi gã còn là một cậu bé, chỉ là chưa bao giờ cô được nhìn người đàn ông này khi ở khoảng cách gần đến thế, trực tiếp đến thế. Khi thấy ánh lệ lấp lóa trong đôi mắt Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt của vị nữ giáo quan tâm trí tưởng như đã được rèn đúc thành sắt thép ấy cũng lập tức ướt đẫm.



Hai người không nói với nhau câu nào, cứ lẳng lặng nhìn nhau chăm chú như thế, mỉm cười, rơi lệ. Nhưng rất rõ ràng, sắc mặt Lữ Cánh Nam đang mỗi lúc một tái nhợt đi, tâm trí cô lững lờ phiêu bồng, hồ như đã trở lại thời điểm nhiều năm về trước.



Băng qua núi tuyết mênh mông, ở đó có tòa đại điện mái vàng nguy nga hùng vĩ. Những pho tượng Kim Cương uy nghiêm trong chính điện đối với một cô bé năm sáu tuổi trông thật to lớn, ánh đèn đung đưa khiến những cái bóng hắt lên tường uốn éo chuyển động. Vị lạt ma áo vàng bước vào, vị lạt ma áo đỏ đi ra.



Một tấm ảnh xuất hiện trước mặt cô bé. Cậu bé trong tấm ảnh phỏng chừng lớn hơn cô độ một hai tuổi, gương mặt nhem nhuốc bẩn thỉu đầy mồ hôi, tóc tai quần áo đều dơ dáy, trông như một đứa trẻ hoang ở trong núi chạy ra vậy, duy chỉ có đôi mắt ấy, tròng đen tròng trắng phân biệt rõ ràng, ánh mắt ngông nghênh bướng bỉnh hết sức. Dường như cậu ta vừa đánh nhau với ai, nét mặt toát lên bộ dạng của kẻ nhất quyết không chịu nhận thua. Nhìn cậu bé trong ảnh, cô bé chợt nhoẻn miệng tươi cười, lộ ra hai hàng răng sữa xinh xắn.



"Đây là Cường Ba thiếu gia, nếu con muốn trở thành Mật tu giả, cậu ấy sẽ là ký chủ của con."



"Ký chủ là gì ạ?"



"Ký chủ, chính là chủ nhân của linh hồn ta và con, phải dùng sinh mạng của chúng ta để bảo vệ an toàn cho họ. Bọn họ chính là ý nghĩa và giá trị tồn tại của chúng ta. Có điều, con là ngoại môn đệ tử, sau này vẫn có thể sống như người bình thường, chỉ khi ký chủ của con có khả năng gặp nguy hiểm, cần đến con, chúng ta mới triệu hồi con về bên cạnh cậu ấy."



"Có thể cùng chơi với cậu ấy không?"



"Không thể, chúng ta có thể nhìn thấy cậu ấy, nhưng cậu ấy sẽ không thấy chúng ta. Chúng ta chỉ có thể ngầm bảo vệ trong bóng tối, con phải nghĩ cho kỹ. Trở thành Mật tu giả phải trải qua tu luyện rất khắc nghiệt, con không thể chơi với người khác, không có búp bê xinh, không có quần áo đẹp. Ngày ngày, con sẽ phải không ngừng chịu đựng đau đớn để sinh tồn. Mà sau khi thành tài, ngoại trừ thân thể mạnh hơn người khác một chút, con cũng không có gì khác với người bình thường cả."



Cô bé nhìn ra ngoài cửa, cha cô đang đứng ở đó, cô ngoảnh lại nhìn vị lạt ma, kiên định nói: "Con chấp nhận."



"Được rồi, chúng ta cùng thề nào. Con phải nhớ kỹ, lời thề ngày hôm nay sẽ đi theo con suốt cả cuộc đời. Con đã lựa chọn con đường này, thì không thể quay đầu được nữa."



"Cô bé ngoan, kết thủ ấn đi, giống như ta đây này, ta sẽ hỏi, con sẽ trả lời. Phải nhớ kỹ, không được trả lời trái với ý nguyện của mình đâu nhé."



"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Trí Tuệ chi vương Đông, con có tự nguyện gia nhập vào Thánh giáo quang minh, tuân theo pháp chỉ của Thánh giáo, nghiêm cẩn giữ gìn bí mật của Thánh giáo, trung thành với Thánh giáo.. vĩnh viễn không bao giờ phải bội không?"



"Vâng, con nguyện ý."



"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."



"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."



"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Quang Minh chi vương Mạc, con có tự nguyện tu hành Mật pháp của Thánh giáo, kính thầy như cha mẹ, thầy có việc cần, một lòng nghe lệnh, con cái của thầy, coi như anh em… phàm những gì con biết, dù truyền miệng hay chép ra thành sách cũng chỉ truyền cho con của con hoặc con của thầy con và những đồ đệ có lời thề này, ngoài ra không truyền cho ai khác?"



"Vâng, con nguyện ý."



"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."



"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."



"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Vạn Thú chi vương Trại, con có tự nguyện dùng những thứ mình học được, với năng lực và khả năng phán đoán của mình, coi việc làm lợi cho thiên hạ chúng sinh làm tín điều, trừng trị mọi hành vi đọa lạc và hại người… dù đi tới đâu, gặp nam hay gặp nữ, quý nhân hay nô tỳ, mục đích duy nhất của con cũng là mưu cầu hạnh phúc cho người khổ nạn, tận hết sức mình cho người cần giúp, đồng thời tự mình kiểm điểm, tiêu trừ ác niệm…"



"Vâng, con nguyện ý."



"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."



"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."



"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Thủ Hộ chi vương Đảng, con có tự nguyện tôn Trác Mộc Cường Ba làm ký chủ suốt đời này, tuân theo ý chỉ của Thánh giáo ở bên cậu ấy, tôn trọng cậu ấy, bảo vệ cậu ấy như con ngươi của mắt mình, từ giờ cho tới vĩnh viễn về sau, bất luận cậu ấy phú quý hay bần hàn, khỏe mạnh hay ốm đau, một lòng trung thành với cậu ấy, cho tới khi cậu ấy rời khỏi thế gian này?"



"Vâng, con nguyện ý…"







"Lữ Tiểu Hồng, kể từ giây phút này, con đã là Mật tu giả, sẽ đoạn tuyệt mọi phàm niệm của thế tục, sẽ không sử dụng tên thế tục của con nữa, trưởng lão Trát Can ban cho con pháp danh Cánh Nam."







Thời không dường như tạm thời dừng lại, bọn lính đánh thuê sớm đã ào ào bỏ chạy như ong vỡ tổ, tòa tháp hình trứng trở nên yên lặng như tờ, duy chỉ còn đóa hoa lửa đang phun trào lên như suối vẫn lập lòe hắt sáng đỏ bừng cả gương mặt hai người.



Một tiếng hét vang phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch ấy: "Này, chết tiệt thật, chỗ này sắp bị phá hủy rồi, mau đi khỏi đây thôi, bọn lính đánh thuê kia cũng chạy hết rồi!"



Merkin không ngờ vẫn chưa bỏ đi, nếu không có tiếng hét không đúng lúc này của y, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam thậm chí đã quên mất sự tồn tại của con người này. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, thấy đài sen trên đỉnh Mạn Đà La đã hoàn toàn tan chảy, dung nham chảy thành dòng đỏ rực như lửa men theo tám tầng Mạn Đà La tuôn xuống, một dòng nhỏ đã chảy vào đầy tháp đến chỗ những đống sách chất cao như núi. Đám kinh sách liền bốc cháy ngùn ngụt.



"Anh đưa em cùng đi, chúng ta trở về thôi," Trác Mộc Cường Ba định ôm Lữ Cánh Nam dậy, nhưng cô khẽ lắc đầu, nhẹ nhàng nói: "Những gì có thể dạy, em đều đã dạy anh cả rồi, sau này… sợ rằng em không thể bảo vệ anh được nữa, Cường Ba thiếu gia, anh phải chăm sóc tốt cho mình, để em và pháp sư Á La ở lại đây được rồi, đây là Thánh điển mà chúng em vẫn luôn tìm kiếm…"



Dung nham chảy tràn ra càng lúc càng nhiều hơn, Merkin ở bên cạnh rối rít thúc giục: "Còn không mau lên thì không đi được đâu."



Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng gầm lên: "Mặc xác tôi!"



Đột nhiên, trước mặt gã tối đen, tựa như nhìn thấy Lữ Cánh Nam đang gắng gượng mỉm cười, bàn tay tạo thành một dấu hiệu chỉ có lính đặc chủng chính quy mới hiểu được. "Merkin đánh lén!" Ý niệm ấy lóe lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, thân thể gã đã nặng nề gục xuống.



Ba năm thời gian, từng chút từng chút hiện lên trong tâm trí gã như một đoạn phim tua ngược, bắt đầu từ khi nhìn thấy tấm ảnh đó: Mẫn Mẫn mặc váy dài trắng toát tha thướt đến bên cạnh gã, nụ cười tươi như hoa; thầy giáo gã miệng ngậm điếu thuốc, Trương Lập lái xe Jeep giới thiệu Tây Tạng với bọn họ; ánh mắt hung hãn của Ba Tang trong nhà giam; rồi vùng Khả Khả Tây Lý băng tuyết mù mịt, ba anh em nhà sói xám ung dung lùa con gấu khổng lồ; gương mặt râu ria của đội trưởng Hồ Dương, không giận mà tự có uy; Nhạc Dương ung dung bắt được tên trộm, nở một nụ cười rực rỡ như ánh ban mai; ánh mắt sắc bén như chim ưng của Lữ Cánh Nam, thấp thoáng nét yêu kiều; nét mặt nghiêm túc của pháp sư Á La; rừng rậm Amazon nóng ẩm bức bối; hàm răng trắng bóc của Babatou; mái tóc trắng bạc của Sean; Bạch Thành ở Maya; núi tuyết nguy nga hùng vĩ; Đảo Huyền Không tự tăm tối mờ mịt; dòng U Minh hà cuồn cuộn dưới lòng đất… phảng phất như một giấc mộng, một giấc mộng quá dài, quá khổ sở… nụ cười thân sĩ khiêm nhường nhã nhặn của Đường Thọ lại xuất hiện trong giấc mộng ấy, đột nhiên gương mặt đó được phóng to ra vô hạn, cái cằm kéo dài, miệng to ngoác, tai dài và sừng nhọn cũng mọc ra, cả gương mặt đều chìm trong ngọn lửa hừng hực… không, đây không phải là sự thực…



Trác Mộc Cường Ba mở bừng mắt ra, liền trông thấy trời xanh mây trắng, gã hơi nghiêng người, bên cạnh là thảm cỏ xanh mơn mởn như ngọc bích, thế này là thế nào? Không phải là gã đang ở trong khu vực trung tâm của Bạc Ba La thần miếu hay sao? Dung nham núi lửa trào lên, lẽ nào thật sự đó chỉ là một giấc mộng?



Trác Mộc Cường Ba nhổm người ngồi dậy, bốn phía xung quanh đều là thảm cỏ, Merkin đang ủ rũ ngồi bên cạnh, nét mặt đầy vẻ lo âu, không biết đang nghĩ gì. Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ra, đây không phải là một giấc mộng, bọn họ đã ra khỏi địa cung trong Bạc Ba La thần miếu, rốt cuộc gã đã hôn mê bao lâu? Làm sao mà ra được ngoài này? Còn Lữ Cánh Nam? Đây là chỗ nào?



Trác Mộc Cường Ba nhảy bật lên, đảo mắt quan sát hoàn cảnh xung quanh, một bên là núi tuyết, hồ tế khổng lồ ở phía sau không xa, giữa hồ ùng ục nổi lên vô số bọt khí, mấy cái hòm lớn trông như cỗ quan tài dập dềnh va đập vào bờ nước, còn quảng trường nơi có lối vào thần miếu thì đã ở quá xa ngoài tầm mắt.



"Tôi hôn mê bao nhiêu lâu rồi? Chúng ta ra đây bằng cách nào? Lữ Cánh Nam đâu?" Trác Mộc Cường Ba tóm lấy vai Merkin, hỏi một mạch mấy câu liền.



Merkin mấp máy miệng, cơ hồ không biết nên trả lời câu nào trước, cuối cùng ý nói: "Cũng không lâu lắm, tôi vừa kéo anh lên bờ. Những người cổ đại kia đã chuẩn bị hết cả rồi, còn nhớ gian đại điện bên ngoài tòa tháp không?



Khi máu chúng ta mở cánh cửa tòa tháp hình trứng ra, hai bên tường còn lại cũng mở ra theo, đó là lối thoát duy nhất. Bọn họ đã xây dựng một đường hầm thông thẳng xuống đáy hồ, giống như nòng pháo vậy. Những cái hòm lớn kia chính là công cụ duy nhất để thoát ra. Chúng vốn được trữ trong đường hầm, khi cơ quan khởi động liền có nước hồ tràn vào trong. Bên dưới là dung nham nóng chảy, nước gặp dung nham bốc hơi sinh ra một lượng khí lớn, khí áp khổng lồ đó sẽ đẩy cả người lẫn cái hòm bắn lên mặt hồ như một viên đạn."



"Lữ Cánh Nam đâu?" Trác Mộc Cường Ba lắc vai Merkin hỏi, "Tôi hỏi ông Lữ Cánh Nam đâu?"



Merkin vẫn không nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt hướng về phía xa xăm: "Tôi chỉ có thể mang theo một mình anh ra thôi."



Trác Mộc Cường Ba buông tay, loạng choạng lùi lại một bước, rồi nhanh chóng xông tới, nhấc cổ áo Merkin lên gằn giọng quát: "Tôi không tin! Đây là cái gì, kia là cái gì chứ…" Gã chỉ vào những cái hòm lớn nổi dập dềnh trên mặt nước.



Merkin cười khổ nói: "Đừng quên, kẻ đầu tiên chạy thoát ra là Đường Thọ, một vài tên lính đánh thuê cũng chạy ra trước chúng ta, một số khác… có lẽ không thoát được." Merkin nhớ lại cảnh tượng trong gian đại điện ấy, bọn lính đánh thuê lăn lộn trong đống vàng bạc châu báu, trên người đeo, trên tay cầm, trong miệng ngậm, toàn là trân châu bảo ngọc, lại còn một vài tên khác tranh giành nhau một món gì đó, lao vào cào cấu cắn xé như lũ thú hoang.



Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Không thể nào, Lữ Cánh Nam sẽ không có chuyện gì đâu, cô ấy giỏi như vậy, làm sao lại có chuyện gì được chứ? Đưa tôi quay lại, tôi muốn quay lại tìm cô ấy!"



"Đừng ngu ngốc nữa!" Merkin gầm lên, "tòa tháp ấy đã không còn tồn tại nữa, đại điện ấy cũng không còn tồn tại nữa! Anh có biết không!" Y vùng lên, tóm chặt Trác Mộc Cường Ba vừa lắc vừa giật, cuối cùng đẩy mạnh gã một cái, chỉ tay về phía quảng trường đằng xa: "Rất nhanh thôi, tòa Bạc Ba La thần miếu này cũng sẽ không tồn tại nữa!" Hai người ngồi phịch xuống đất, cơ hồ cuộc cãi vã vừa rồi đã khiến cả hai tiêu hao hết sức lực, đầu cúi gục, ai nấy đều có tâm sự riêng.



"Ủa, sao vậy? Mâu thuẫn rồi à?"



Vừa nghe giọng nói ấy, cả hai đều giật nẩy mình, bật tung người lên theo phản xạ. Chỉ thấy ở phía xa, Đường Thọ đang chậm rãi bước tới từ phía bên kia trảng cỏ, trên mặt vẫn nở nụ cười ấy, bộ dạng hết sức ung dung. Trên người y, nhuốm đầy vết máu. "Ta đã nói rồi, chuyện đau khổ nhất trên đời này, không gì hơn kiên trì không được mà vẫn phải kiên trì, buông bỏ không được mà vẫn phải buông bỏ, đến khi tỉnh ngộ, tất cả đều đã muộn, không còn cách nào quay đầu lại nữa. Cường Ba thiếu gia, có phải ngươi đã thể nghiệm rồi chăng?"



"Đường… Thọ…" Đó là tiếng gầm phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba.



"Người quyết sách!" Đó là giọng run run của Merkin.



TỬ ĐẤU (1)



"Là ta đây, ta lại quay lại rồi." Đường Thọ giơ tay trái lên, lè lưỡi liếm vết máu dính trên mu bàn tay, dường như rất thỏa mãn. Y nói với Trác Mộc Cường Ba và Merkin: "Sao chỉ có hai người các ngươi sống sót trở ra thôi à? Ta còn tưởng ít nhất phải có ba người chứ. Có điều, bớt một người cũng tốt, ta đỡ phải tốn sức."



Bàn tay Trác Mộc Cường Ba nắm lại kêu lên răng rắc: "Mày còn dám quay lại đây à!"



Sắc mặt Merkin lại trở nên tái nhợt: "Mày…mày muốn…"



Đường Thọ mỉm cười: "Đúng thế, có lẽ nơi này sẽ bị hủy diệt, cũng có thể vẫn còn giữ được chút gì đó cũng không chừng, ai mà biết được. Ta không hy vọng, ngoại trừ ta ra trên đời này còn có người khác biết đến sự tồn tại của nơi này."



Merkin kéo kéo vạt áo Trác Mộc Cường Ba, thấp giọng nói: "Hắn quay lại để diệt khẩu, bọn lính đánh thuê kia, chỉ sợ đã chết hết rồi."




Dù sống sót ra khỏi vùng tuyết phủ này thì sao chứ? Phải đối phó với Mười ba kỵ sĩ bàn tròn như thế nào? Em gái lớn lên mặt mũi như thế nào? Pháp sư Đan Châu có thu nhận gã hay không? Phải ăn nói với thầy giáo như thế nào? Những nhân viên trong công ty nuôi luyện chó ngao của gã thì sao? Giữa vùng mênh mang ấy, Trác Mộc Cường Ba phảng phất như nghe thấy cha mình đang cất tiếng trong làn gió: "Sự sống tồn tại vì cái gì? Con người tồn tại vì cái gì? Là một con người, con sống vì cái gì?"



HẾT



Chú thích:



(1) Chữ hồi: 回



(2) Thiên đàn: là đàn tế lớn nhất trong bốn đàn ở Bắc Kinh (Thiên đàn, Địa đàn, Nhật đàn, Nguyệt đàn), nơi các hoàng đế triều Minh và Thanh làm lễ tế trời. Để biết thêm, xin tham khảo tại địa chỉ: http://en.wikipedia.org/wiki/Temple of Heaven.



(3) Kháng đá: Một loại giường bên trên để nầm, bên dưới đặt bếp lò để sưởi.



(4) Minh mã: trong ngành mật mã học, nội dung có thể trực tiếp đọc được, nhìn thấy được gọi là minh mã, nội dung có được sau khi xử lý minh mã, là mật mã.



(5) "Dẫu thiên binh vạn mã, ta cũng tiến lên": Câu này trong sách Mạnh tử (Công Tôn Sửu). Nguyên văn như sau: Tự phản nhi bất súc, tuy hạt khoan bác, ngô bất sủy yên? Tự phản nhi súc, tuy nhiên vạn nhân, ngô vãng hĩ. Nguyên ý cả câu là: Tự mình suy xét. nếu thấy không có đạo lý, thì phải rút lui; trái lại, nếu sau khi suy xét, thấy có lý lẽ, không hổ thẹn với lương tâm, thì dù có thiên quân vạn mã, ta cũng dũng cảm tiến lên, quyết không chùn bước.



(6) Chỗ bảy tấc: Người ta cho rằng, vị trí bảy tấc tính từ đầu rắn trở xuống, là tim rắn, đánh trúng có thể khiến con rắn chết ngay lập tức.



(7) Thú bộ, Lang bôn: Bước đi kiểu thú, chạy kiểu sói.



(8) Gần đây, có một chiếc bát gốm Nhữ đã được bán vơi sgias khoảng mười triệu đô la Mỹ.



(9) Chùa Pháp Môn ở tỉnh Thiểm Tây, được xây dựng vào cuối thời Đông Hán, phát tích vào thời Bắc Ngụy, hưng thịnh từ thời Tùy Đường, được gọi là chùa của Hoàng gia. Trong chùa có thờ Xá Lợi xương ngón tay của Thích Ca Mâu Ni, nên trở thành thánh địa Phật giáo của cả nước Trung Quốc.



(10) Lò Việt mờ, tựa sương cuối thu. Đoạt lấy cả sắc biết của đỉnh núi cao.



(11) Khéo cát trắng sáng nhuộm nước xuân, khẽ xoay băng mỏng tô mây xanh.



(12) Lưu vân phi bộc: mây bay thác chảy



(13) Lăn lư dã cổn: con lừa lười lăn mình



(14) Sạn đạo: Đường làm bằng cọc gỗ lát ván men theo các vách núi, rìa vực.



(15) Thai tạng giới Mạn đà la, Kim cương giới Mạn đà la: Mật giáo đã thiết lập hai Mạn đà la: Thai tạng giới Mạn đà la và Kim cương giới Mạn đà la, có nguồn gốc xuất phát từ tư tưởng của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Theo quan điểm tư tưởng của Phật giáo thì vũ trụ gồm hai phần, một phần là nhân cách và phần kia là thế giới của nhân cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng của Phật. Hai Mạn đà la này là sự hội nhập giữa thụ tri và sở tri.



Thai tạng giới Mạn đà la (Garbhadhatu mandala) là yếu tố thụ động, mô tả vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tính, như thai mẹ chứ đựng con và từ lý tính thai tạng mà sinh công đức, biểu hiện đại bi tâm của Phật.



Kim cương giới Mạn đà la (Vajradhatu mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện cho trí tuệ viên mãn, trí tuệ sở chứng của Phật. Ngũ Trí Như Lai là trọng tâm của Mạn đà la này. Bí tạng ký viết: "Thai tạng là lý, Kim cương là trí."



Phần lớn các Mạn đà la Phật giáo được vẽ, in hoặc thêu những mẫu hoa văn kỷ hà. Một trong những loại Mạn đà la lớn thường bắt gặp là Mạn đà la bằng cát. Những Mạn đà la này được tạo ra trong nhiều tuần lễ và sau đó lại được quét bỏ đi để nói lên tính vô thường của hiện hữu. Ngoài ra, ở Tây Tạng còn có các Mạn đà la ba chiều giống như cung điện.



(16) Phi Thiên: Thiên thần



(17) Nam Truyền Ngũ Bộ kinh: Trong thời nguyên thủy của Phật giáo, các vị đệ tử Phật sau khi nghe pháp, đã dùng hình thức kệ tụng để khẩu truyền cho nhau, và những gì được khẩu truyền, đều y cứ vào trí nhớ. Nhưng, những vị đệ tử Phật, tùy căn cơ mà lãnh thọ giáo pháp của Phật mỗi người mỗi khác, từ đó mà nảy sinh những tư tưởng không giống nhau. vậy, khi giáo đoàn đã chính thức xác lập, thì việc chỉnh lý, thống nhất tất cả giáo thuyết của đức Phật, nghiễm nhiên trở thành một nhu cầu bức thiết. Kết quả là, tất cả những lời dạy của đức Phật trong suốt cuộc đời hóa độ, dần dần phát triển thành một loại hình thức văn học nhất định; cuối cùng đã hình thành toàn bộ THÁNH ĐIỂN, được gọi là KINH A HÀM, tức KINH TẠNG trong Ba Tạng.



Như vậy, Kinh A Hàm đã được truyền thừa từ giáo đoàn nguyên thủy; đến thời kỳ Phật giáo bộ phái, nó lại được truyền thừa trong từng bộ phái. Các tài liệu hiện có cho thấy, vào thời đó, ít ra thì Nam Phương Thượng Tọa bộ, Hữu bộ, Hóa Địa bộ, Pháp Tạng bộ, Đại Chúng bộ, Ẩm Quang bộ và Kinh Lượng bộ, đều có kinh điển truyền thừa; nhưng cho đến ngày nay thì chỉ thấy có kinh điển của Nam Phương Thượng Tọa bộ là được bảo tồn trọn vẹn; gồm có 5 bộ kinh: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ. Tất cả đều được viết bằng chữ Pali, và được gọi là Năm Bộ Kinh Nam Truyền (Nam Truyền Ngũ Bộ), cũng tức là Năm Bộ Kinh A Hàm Nam Truyền (Nam Truyền Ngũ A Hàm)



(18) Bản dịch của Như Khanh



(19) Vô nhân vô ngã: Không có người mà cũng không có ta.



(20) Hương tượng (Gandhahastin): Theo luận Đại Tỳ Bà Sa, hương tượng là con voi đực trong thời kỳ động dục, nách nó tỏa mùi thơm hăng nồng nên gọi là hương tượng; sức nó mạnh bằng mười con voi thường.



(21) Hương tượng độ hà: Trong kinh Niết Bàn có từ ngữ "hương tượng độ hà": Thỏ, ngựa, hương tượng cùng vượt sông. Thỏ qua sông thì nổi, ngựa qua sông nhập nửa thân, còn hương tượng chân đạp đến tận đáy sông. Kinh luận dùng hình ảnh này để tỷ dụ sự chứng đắc sâu cạn khi nghe giáo pháp.



(22) Long tượng: Được dịch từ chữ Naga trong tiếng Sankrit. Thường chỉ một con voi khổng lồ, hoặc dùng để chỉ sự dũng mãnh và đại lực của các vị đại Thánh, chư Bồ Tát hay chư Phật.



(23) Tượng vương hành xứ hoa lạc hồng: Tượng vương đi tới đâu thì hoa rụng đỏ tới đó để cung nghênh.



(24) Chữ chi: 之



(25) Hoa Dung đạo: một trò chơi cổ của Trung Quốc, gồm một khay vuông, và các hình vuông hoặc chữ nhật bên trên có vẽ Tào Tháo, Trương Phi, Quan Vũ... xếp gần kín khay, chỉ để ra một ô trống. Người chơi có nhiệm vụ lợi dụng ô trống này để dịch chuyển các hình nhân vật sao cho Tào Tháo có thể đi từ vị trí cao nhất đến vị trí thấp nhất của khay. Trò này tương tự như trò xếp hình vậy.



(26) Tranh quốc họa: Một họa pháp của hội họa Trung Quốc, dùng mực loãng hoặc màu nhạt soa phủ lên tranh đã vẽ để tăng hiệu quả nghệ thuật.



(27) "Thanh minh thượng hà đồ" là tên của một số tác phẩm hội họa khổ rộng của Trung Quốc, trong đó bản đầu tiên và nổi tiếng nhất là bức tranh của họa sĩ Trương Trạch Đoan vẽ đời nhà Tống. Tác phẩm mô tả cảnh sống của người dân Trung Quốc đời Tống tại kinh đô Biện Kinh (tức khai phong ngày nay) với đầy đủ những sinh hoạt thường nhật, trang phục, ngành nghề, cá chi tiết kiến trúc, đường sá cũng được mô tả kỹ lưỡng với nhiều màu sắc trên một diện tích rộng.



(28) Ma kính: Gương ma thuật.



(29) Hỏa thư ngân hoa: Cây lửa hoa bạc; ý chỉ cảnh đèn hoa rực rỡ.



(30) Người nông dân và con rắn, Đông Quách tiên sinh và con sói: Đây là hai câu chuyện ngụ ngôn, đại ý rằng những người không phân biệt tốt xấu, cứu giúp kẻ gian vong ân bội nghĩa, sẽ bị nó hãm hại.



Hai chuyện này đại để như sau:



Có người nông dân đi ra đồng trong lúc tiết trời lạnh lẽo, nhìn thấy một con rắn bị lạnh cóng. Người này thương tình bèn bỏ con rắn vào trong ngực áo sưởi ấm. Con rắn được ủ ấm tỉnh lại, liền cắn người nông dân một phát, khiến người này chết ngay tại chỗ.



Đông Quách tiên sinh là người thời Xuân Thu. Một lần đi qua núi, giữa đường gặp một con sói bị thợ săn đuổi theo cầu xin cứu mạng. Đông Quách tiên sinh đồng ý giúp đỡ, cho con sói trốn nhờ. Lúc thợ săn đi khuất, con sói liền quay lại định ăn thịt Đông Quách tiên sinh.



(31) Chữ nhi: 而



(32) Thâu quan: Ván cờ vây được chia thành ba giai đoạn, gọi là: bố cục, trung bàn hoặc (trung bàn chiến) và thâu quan.



Bố cục



Đây là giai đoạn ra quân trong cờ vây, quyết định cả bộ mặt của ván cờ sau này. Phần lớn trong khai cuộc, người ta tìm cách "án ngữ" vùng đất lớn trên bàn cờ bằng một đến hai quân cờ; sau đó sẽ phát triển dần.



Trung bàn chiến



Ở phần này, chủ yếu hai bên tập trung vào việc tranh giành đất đai, bắt đầu tính tới các vùng tranh chấp, tìm cách đặt quân như thế nào để hạn chế sự bành trướng của đối phương, chuẩn bị vây bắt quân đối phương.



Hầu hết các ván cờ nổi tiếng đều nhờ kỹ năng điêu luyện của các kỳ thủ thể hiện trong giai đoạn Trung bàn.



Thâu quan



Sau khi qua trung cuộc, các vùng lãnh thổ của cả hai đấu thủ tạm thời xác định, ít có khả năng tạo ra những thay đổi lớn về tương quan thế lực của hai bên, việc hoàn chỉnh lãnh thổ chỉ còn là những việc nhỏ chi tiết, đó chính là giai đoạn tàn cuộc gọi là Thâu quan. Các quân cờ thường được sắp xếp lại để tạo thành những hình đơn giản, thuận tiện cho việc xác định lãnh thổ và tính điểm. (Theo wikipedia)



(33) Phép thử thô bạo (Brutal force attack): Một phương pháp trong phá giải mật mã bằng cách thử tất cả mọi chìa khóa có thể có.



(34) Chữ hồi: 回



(35) Xuyết thuật (缀术): là một bộ sách toán thời Nam Bắc triều, tập hợp thành quả nghiên cứu của hai cha con nhà toán học Tổ Xung Chi và Tổ Hằng. Cuốn sách này được cho là có nội dung hết sức thâm ảo, đến nỗi " người học không thể hiểu hết sự ảo diệu, vậy nên bỏ không xem nữa" (Tùy Thư). Đến đời Đường, Xuyết thuật được liệt vào "Toán kinh thập thư", trở thành giáo trình toán học của Quốc Tử Giám, tương truyền bây giờ phải mất bốn năm mới học được hết sách này. Xuyết thuật từng được truyền đến Triều Tiên, Nhật Bản, nhưng đến thời Bắc Tống thì bộ sách đã thất truyền.



(36) Xạ phúc: là một dạng trò chơi đoán vật. Những người học tập thuật chiêm bốc trong Kinh Dịch thường chơi trò này để nâng cao năng lực chiêm đoán. Người chơi phải dùng các cách thức bói toán để đoán xem vật được giấu bên trong lu hoặc vại đậy kín là gì.



(37) Đây là triết lý nhất đa tương dung (một và nhiều tương dung nhưng không tương đồng) của Hoa Nghiêm Tông, nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá hoại cái tương riêng biệt (an lập) của mỗi vật. Như muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng trong một gian nhà, ánh sáng của ngọn này ngọn kia hòa lẫn với nhau, nhưng mỗi ngọn vẫn có ánh sáng của riêng mình.



(38) Thụ thể: là những protein biệt hóa để tiếp nhận các phân tử hóa học nội sinh (ligands) hay ngoại sinh (thuốc, độc chất).



(39) Khay Mantra: hay còn gọi là Man Trát, là một loại pháp khí thường gặp trong Trạng truyền Phật giáo, tượng trưng cho toàn bộ vũ trụ thu nhỏ vào trong.



(40) Lục Mang tinh: Ngôi sao sáu cánh, còn gọi là ngôi sao David, hay ngôi sao Do Thái.



(41) Tất cả đều là pháp khí của phật giáo Tây Tạng.



(42) Trong tiếng Trung, âm đọc chữ Thomas rất giống với chữ Đường.



(43) Người quyết sách, cổ độc: Trong tiếng Trung, âm đọc của những từ này khá gần với câu nói của Sean.



(44) Kham bố là trụ trì của chùa lạt ma, đồng thời cũng là một chức quan trong chính quyền Phật giáo ở Tây Tạng xưa.



(45) Vị táng: Một hình thức chôn người chết, tương tự hỏa táng, thủy táng... Trong trường hợp này, vị táng là chôn trong dạ dày (ăn thịt).



(46) Liệu pháp cocktail: Tên chính thức của liệu pháp này là HAART, viết tắt của Highly Active Anti-Retroviral Therapy (Liệu pháp kháng retrovirus cực mạnh). Đây là liệu pháp sử dụng kết hợp nhiều loại thuốc với nhau đã làm giảm mạnh số bệnh nhân chết vì AIDS ở các nước phương Tây. Các chuyên gia coi liệu pháp HAART là một trong số nhiều yếu tố làm tỷ lệ tử vong do AIDS ở Mỹ năm 1997 giảm 47%. Năm 1997, lần đầu tiên kể từ năm 1990, AIDS rời khỏi danh sách 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Mỹ, từ thứ 8 tụt xuống thứ 14. Đặc tính quan trọng nhất của HARRT là khả năng phá vỡ HIV tại những giai đoạn khác nhau trong quá trình sao chép của virus.



(47) Prion (viết tắt của proteinaceous infectious particie) là phân tử protein và không chứa một loại axit nucleic nào hoặc nếu có thì cũng quá ngắn để mã hóa bất kỳ một protein nào mà prion có. Trong cơ thể bình thường có thể có sẵn prion nhưng chúng không gây bệnh. Trong một điều kiện nào đó prion có thể thay đổi cấu trúc và gây bệnh. Prion gây nhiều bệnh nguy hiểm ở động vật và người, gây thoái hóa hệ thần kinh trung ương và giảm sút trí tuệ như bệnh bò điên, bệnh kuru ở người.



(48) Đại thực bào (tiếng Anh: "macrophage") là những tế bào bạch cầu, phân nhóm thực bào, có vai trò quan trọng trong hệ miễn dịch không đặc hiệu cũng như hệ miễn dịch đặc hiệu ở động vật có xương sống. vai trò chính của chúng là loại bỏ các thành phần cặn bã của tế bào và tác nhân gây bệnh. Đại thực bào có thể lưu hành tự do trong máu hay cố định tại các tổ chức, tại đây chúng có tên gọi khác nhau. (Theo Wikipedia)



(49) Interferon là một nhóm các protein tự nhiên được sản xuất bởi các tế bào của hệ miễn dịch ở hầu hết các động vật nhằm chống lại các tác nhân ngoại lai như virus, vi khuẩn, kí sinh trùng và tế bào ung thư. Nó chỉ được tổng hợp khi có mặt các chất sinh interferon (còn gọi là interferonogen). Interferon thuộc một lớp lớn của glycoprotein được biết đến dưới cái tên cytokine (chất hoạt hoá tế bào). Interferon đóng vai trò quan trọng trong cửa ngõ miễn dịch, nó là hàng rào bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại virus và sự phát triển bất thường của tế bào. Nó là một phần của hệ thống miễn dịch không đặc hiệu (non-specific immune system) và được kích hoạt bởi giai đoạn đầu của quá trình cảm nhiễm trước khi hệ miễn dịch đặc hiệu (specific immune system) có thời gian để phản ứng. Cần phân biệt interferon nội sinh được sinh ra trong cơ thể và interferon ngoại sinh do nuôi cấy tế bào ngoài cơ thể. (Theo Wikipedia)



(50) Vu vương: Vua phù thủy.



(51) Tam Giang Nguyên: Nằm ở tỉnh Thanh Hải trên cao nguyên Thanh Tạng. Vùng này là khỏi nguồn cảu ba con sông lớn Trường Giang, Hoàng Hà, Mê Kông, nên được đặt tên là Tam Giang Nguyên.



(52) Vắc xin sống giảm độc lực: là loại vắc xin được điều chế từ virút hoặc vi khuẩn còn sống nhưng đã qua nhiều công đoạn nuôi cấy làm giảm độc lực của tác nhân gây bệnh này. Về lý thuyết, khi vắc-xin được sản xuất đúng quy trình chuẩn, thì các virút hoặc vi khuẩn dù còn sống nhưng đã được làm giảm độc lực rồi, sẽ không gây bệnh khi đưa vào cơ thể con người.



(53) Vắc xin chết: là loại vắc xin mà thành phần của chúng có chứa toàn bộ hoặc một phần xác chết của virus hoặc vi khuẩn nào đó. Khi tiêm vào cơ thể, những thành phần này không gây bệnh cho con người mà chỉ có vai trò kích thích cơ thể sản xuất kháng thể chống loại mầm bệnh.



(54) Michael Young: Không thể chứng thực được thông tin này, có thể đây là thông tin mà tác giả hư cấu.



(55) Chữ phẩm: 品



(56) Hải Để Luân: Trong Ấn Độ giáo và một số nền văn hóa châu Á, luân xa là trung tâm thu phát năng lượng trong cơ thể người, có bảy luân xa chính nằm dọc theo cột sống lên đến đỉnh đầu. Hải Để Luân hay Mūlādhāra (Luân xa gốc) là luân xa nằm ở đốt xương sống cuối cùng.