Mật Mã Tây Tạng
Chương 28 :
Ngày đăng: 19:00 20/04/20
Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống. Khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này gọi là "vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại". Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.
Bí mật lịch sử Cổ Cách
Lại thêm ba tuần nữa trôi qua, Ba Tang sau khi điều trị hồi phục và xuất viện ở Colombia đã liên lạc với Lữ Cánh Nam, chẳng mấy hôm đã thông qua bộ Ngoại giao trở về Trung Quốc. Mọi người vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Mặc dù chuyên băng rừng nguyên sinh này có thể xem như là một thất bại lớn, song dù sao các thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt cũng không ai hy sinh vì nhiệm vụ cả. Trải qua sự việc nơi rừng hoang núi thẳm lần này, quan hệ giữa Ba Tang và các thành viên khác trong nhóm của Trác Mộc Cường Ba cũng bắt đầu trở nên hòa hợp hơn. Chỉ có Trác Mộc Cường Ba là có vẻ khó xử rõ rệt. Những lời của Lữ Cánh Nam, giống như mũi dao sắc đâm thẳng vào lồng ngực gã, "Chúng tôi nghi ngờ, trong các anh có một kẻ mật báo tin tức ra ngoài." Sau khi nghe được điều này, trong lòng Trác Mộc Cường Ba đã ngấm ngầm xếp hạng mức độ tin cậy cho tất cả các thành viên trong nhóm. Bản thân gã cho rằng mình sẽ xếp Đường Mẫn đứng đầu tiên, nhưng khi xếp như thế rồi gã mới nhận ra, dù thế nào, vị trí đầu tiên vẫn nhất định thuộc về thầy giáo của gã, giáo sư Phương Tân. Mẫn Mẫn chỉ có thể xếp thứ hai. Nhạc Dương và Trương Lập đều là người trong quân đội, bản thân gã cũng hết sức tín nhiệm hai người này. Chỉ có mình anh chàng Ba Tang này là đáng nghi nhất. Một khi đã nghi ngờ người nào đó, Trác Mộc Cường Ba sẽ không thể nào rặn ra được một nụ cười giả vờ thiện chí với kẻ ấy được nữa. Khi bắt tay với Ba Tang, ánh mắt gã lộ rõ vẻ hoài nghi. Gã miễn cưỡng gượng cười nói: "Tôi biết là anh không dễ dàng hy sinh như vậy được mà."
Ba Tang cũng nói: "Không ngờ rốt cuộc các cậu cũng đi trước tôi một bước."
Theo lời kể của Ba Tang, anh ta bị cơn lũ cuốn về phía Bắc, vì đụng phải cây lớn bị thương nên mất hết tri giác, phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng trong bệnh viện hơn một tháng trời. Bệnh án và một loạt bản báo cáo về anh ta cũng được Bộ Ngoại giao chuyển hết đến tay Lữ Cánh Nam. Những Trác Mộc Cường Ba lại phát hiện ra một điều, chính là da Ba Tang đã đen sạm đi, trên người dường như còn mang theo vị mằn mặn ẩm ướt của gió biển, nhanh nhác mùi của một loại nước hoa cao cấp nào đó. Nói là nghỉ ngơi trong bệnh viện hơn 1 tháng, chi bằng bảo đi du lịch đâu đó hơn một tháng thì giống hơn. Nếu suy đoán của gã mà chính xác, vậy thì kinh phí đi du lịch của Ba Tang lấy từ đâu ra?
Nhìn hai người Trương Lập, Nhạc Dương tíu tít kể cho Ba Tang những chuyện xảy ra sau khi họ lạc nhau, Trác Mộc Cường Ba không muốn tiến đến quá gần, chỉ lặng lẽ đứng dưới một tán cây. Giáo sư Phương Tân nhận ra vẻ lo âu của gã, bèn hỏi: "Cậu nghi ngờ Ba Tang?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi không biết, nếu trong chúng ta thật sự có một người đáng nghi ngờ, thì cũng chỉ có thể là anh ta mà thôi. Song tôi cũng rất mâu thuẫn, tôi có nên vô duyên vô cớ đem lòng nghi ngờ người khác không nhỉ?"
Giáo sư Phương Tân mỉm cười khuyên giải: "Đường dài mới hay sức ngựa, ngày lâu mới thấy lòng người, hà tất phải dồn tâm trí nghi ngờ ai làm gì? Nếu thực làm chuyện trái với lương tâm, sớm muộn gì anh ta cũng phải lộ ra thôi. Hơn nữa, tại sao chỉ có chúng ta mới bị nghi ngờ, bọn họ, chẳng lẽ không có điểm nào đáng nghi hay sao?" Trác Mộc Cường Ba hiểu được, "bọn họ" mà giáo sư Phương Tân nhắc đến chính là chỉ ba người đến sau, bao gồm Lữ Cánh Nam, Ngải Lực Khắc và lạt ma Á La. Không thể hoàn toàn tin tưởng bất cứ người nào khác hay sao? Gã lắc đầu, chỉ vì thái độ đối với người khác của ai đấy mà làm cả một nhóm người thành ra nghi ngờ lẫn nhau thế này, rốt cuộc là đúng hay sai đây?
Trác Mộc Cường Ba cố gạt những ý nghĩ khiến người ta phải đau đầu ấy ra khỏi tâm trí, chuyển sang chủ đề khác: "Phải rồi, thầy giáo, có phát hiện gì mới về giai đoạn lịch sử ấy của vương triều Cổ Cách chưa?"
Theo những tư liệu điều tra được, lịch sử Cổ Cách đại khái cũng đã hiện lên khá rõ ràng. Giáo sư Phương Tân từng buông lời cảm thán thế này: "Cổ Cách đúng là một vương triếu sinh ra vì Phật giáo, rồi cũng vì Phật giáo mà diệt vong."
Cổ Cách vương là hậu duệ trực hệ của vị Tạng vương đã ra lệnh diệt Phật giáo Lãng Đạt Mã. Tạng vương Lãng Đạt Mã diệt Phật chỉ mới hai năm, đã bị La Long Bối Cát Đa Kiệt của Phật giáo giết chết. Sau sự kiện ấy, triều đình Thổ Phồn bắt đầu phân hóa. Duy Tùng là con côi do thứ phi của Lãng Đạt Mã sinh ra, được gia tộc Vĩ thị ủng hộ tôn làm Tán thổ. Còn chính phi cũng không cam chịu để mất quyền lớn trong tay. Tương truyền bà ta đã lén lút mua về một đứa trẻ sơ sinh, rồi cũng lập đứa con mua về này làm Tán thổ, gọi là Vân Đơn. Kể từ đó trở đi, vương triều Thổ Phồn xuất hiện hai vị Tán thổ cùng một lúc, chia thành hai phái đều tự nhận Tán thổ của mình lập nên mới là Tán thổ thực sự, tranh đấu không ngừng nghỉ. Chiến tranh vì thế bùng nổ và không ngừng lan rộng, nên giai đoạn này người đời sau gọi là Loạn ngũ như.
Chiến tranh kéo dài trong nhiều năm liền khiến trăm họ lầm than, khổ sở không sao tả xiết, cuối cùng đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của các quý tộc và một số quân sĩ. Cả hai vị tán thổ, một người bỏ trốn, một người bị giết. Phụ thân của Cổ Cách vương đời thứ nhất, chính là cháu nội của vị Tán thổ Duy Tùng kia, gọi là Cát Đức Ni Mã Cổn, chạy đến vùng A Lý, thông hôn với tù trưởng địa phương, sinh được ba người con là Bối Cát Nhật Ba Cổn, Trát Tây Cổn và Đức Tổ Cổn, lần lượt chiếm cứ Mang Vực (Ladakh 1 ngày nay), Bố Nhượng (khu vực huyện Phổ Lan) và Tang Cát Nhĩ (phía Nam Ladakh. Ba người con này được xưng là "Thượng Bộ tam Cổn", "Thượng Bộ" ý chỉ vùng A Lý, vì là thổ vương của một vùng nhỏ, nên gọi là Cổn, Cổn có nghĩa là Đấng cứu thế.
Trong các pho Tạng sử chính thức mà họ tra cứu, gần như đều nói Cổ Cách vương đầu tiên là Trát Tây Cổn, nhưng trong tư liệu của Lữ Cánh Nam cung cấp lại có phần dã sử và ghi chép trong dân gian trực tiếp gọi Cát Đức Ni Mã Cổn là Cổ Cách vương đời thứ nhất, vì ông ta đã kế thừa gia nghiệp của vị tù trưởng kia, Cổ Cách cũng nằm trong lãnh địa trị vì ấy. Chỉ có điều nếu như vậy, vị quốc vương nghênh tiếp sứ giả kia phải tính từ Cát Đức Ni Mã Cổn hay tính từ Đức Tổ Cổn, trước mắt bọn họ vẫn chưa thể đưa ra được một kết luận, khoảng thời gian chênh lệch đó ước cũng phải khoảng chừng ba bốn chục năm 2.
Giáo sư Phương Tân nói: "Trước mắt chúng tôi tạm thời nghiêng về giả thiết cho rằng vị Quốc vương nghênh đón sứ giả kia là Cổ Cách vương đời thứ hai Tùng Ngang, bởi vị Quốc vương này có thể nói là đã tận tâm tận lực đối với sự nghiệp hoằng dương Tạng truyền Phật giáo. Tương truyền trong khoảng thời gian từ năm 975 đến 981 sau Công nguyên, ông ta đã phái hai mươi mốt thanh niên bao gồm cả Đại dịch sư Thiết Tang Bố sang Thiên Trúc học Phật (cũng có tài liệu nói là hai mươi bảy người). Hành trình của họ gian khổ khó khăn không bút nào tả xiết, cuối cùng chỉ có hai người sống sót trở về, nghe nói chính là Đại dịch sư và Tiểu dịch sư sau này. Hơn nữa, không lâu sau khi phái đi các thanh niên cầu Phật, vị Quốc vương này thoái vị nhường ngôi, quy y Phật pháp, về sau xây chùa Thác Lâm, đến những năm cuối đời còn gom góp tiền của đích thân đi mời A Để Hiệp đại sư, nhưng dọc đường đã bị quân đội nước khác bắt cóc, cuối cùng thì chết giữa đường. Thằng nhóc Nhạc Dương kia suy đoán, vị Cổ Cách vương này nhiệt tâm với Phật giáo như vậy, quá nửa là do nhìn thấy thần tích mà vị sứ giả kia mang tới, song có điều là, trước khi nhìn thấy Cổ Cách kim thư, tất cả cũng chỉ là suy đoán mà thôi." Nói tới đây, giáo sư Phương Tân không nén nổi mà gượng cười lắc lắc đầu, "Lịch sử của Cổ Cách, quả thực là… cậu có biết không, chỉ riêng chuyện cuối cùng vị Cổ Cách vương ấy Tây du cầu Phật bị bắt cóc, chúng tôi đã tra ra bảy phiên bản khác nhau, địa điểm, thời gian, quân đội nước ngoài, quá trình sự kiện xảy ra, số tiền chuộc đều khác nhau, thực sự là không thể nào phán đoán xem phiên bản nào mới là sự thực đã xảy ra trong lịch sử cả."
Nhìn vẻ mặt chua chát của giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, đây là một vấn đề rất lớn khác mà bọn họ gặp phải khi tra cứu lịch sử của vương triều Cổ Cách. Vương triều này tuy rằng kéo dài đến cả mấy trăm năm, song lại nằm ở miền biên viễn xa xôi. Ngoại trừ các văn bản lịch sử của bản thân nó ra, toàn bộ các tư liệu khác đều chỉ là những thông tin vụn vặt. Đến cả bộ sử thuộc về giai đoạn đầu như Tây Tạng vương thống ký cũng chỉ ghi chép có chín đời Cổ Cách vương, từ sau đó trở đi là không rõ, bọn họ cũng chưa thể đưa ra kết luận cuối cùng về thời gian trong lịch sử. Mà vương triều Cổ Cách này lại còn bị chiến tranh hủy diệt. Bản thân sự biến mất của nó có thể nói đến nay vẫn còn là một câu đó. Mãi đến thế kỷ mười chín, trước khi các nhà thám hiểm nước ngoài bắt đầu tiến vào vùng đất hoang vu không người sinh sống này, mọi người gần như đã hoàn toàn quên lãng rằng từng có một vương triều như vậy trong lịch sử.
Giáo sư Phương Tân thở dài nói: "Lịch sử Cổ Cách và nền văn minh Maya không ngờ lại giống nhau đến kinh người. Cả hai vương triều này đều đột nhiên gặp phải đại họa khi đang trong thời kỳ phát triển rực rỡ huy hoàng nhất. Chính vì biến cố bất ngờ mà tất cả đều được bảo tồn, đều được lưu giữ lại. Mấy thế kỷ sau đó, nhân loại dường như không biết đến sự tồn tại của chúng, kiến trúc và đường phố của chúng không bị hoạt động của con người phá hoại, văn tự và tôn giáo không bị sửa sang, phong cách nghệ thuật và bích họa không bị bóp méo, thậm chí hiện trường lúc gặp phải tai họa hủy diệt của chúng cũng được bảo tồn nữa kia."
Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lúc này, tự nhiên lại nghe thấy tiếng Babatou ngâm nga bài sử ca: "Một khi để máu tanh xâm phạm đến bậc thang của thánh miếu, vô số tai họa sẽ như cơn mưa đá đáng sợ liên hồi kéo đến giáng xuống tất cả mọi nơi, tòa thành sẽ biến thành nơi hoang phế chết chóc, một hoang mạc không người."
Trong biệt thự của Merkin, giữa chiếc bàn vứt bừa bãi ngồn ngộn giấy bút, hai đầu bàn chồng chất sách vở thành hai bức tường. Merkin vùi đầu vào giữa hai bức tường ấy, gần như bò toài ra trên tấm bản đồ, giơ kính lúp lên soi từng đường chỉ mảnh trên đó. Đôi mắt của y nhìn tựa hồ như thuộc về một loài dã thú đói khát nào đó chứ không phải của con người nữa. Soares thì ngồi ôm một cuốn từ điển khổng lồ, dài tới ba mươi centimet, dài rộng sáu mươi centimet, chúi mũi lật lật giở giở.
Những nét đen mảnh trên bản đồ cuối cùng dẫn đến ba nơi khác nhau, dường như ý của người vẽ tấm bản đồ này là muốn người ta đến ba nơi ấy kiếm ba thứ gì đó. Đầu tiên là một viên bảo thạch sáng lấp lánh, phần chú thích bằng tiếng Tạng dịch ra nghĩa là: "Màu đỏ, mở ra món lễ vật tán dương sự sống"; món thứ hai là một cuốn sách dày cộp, bên cạnh có chú thích: "Lý lẽ huyền ảo đều ở trong đây"; còn một món nữa đã bị xóa nhòa đi mất, có lẽ để chứng tỏ không cần thiết, nhưng lờ mờ có thể nhận ra những nét chữ mơ hồ dịch nghĩ là: "Bảo khí, cuối cùng". Ngoài ra, trên bản đồ còn có vô số mũi tên, trỏ đi trỏ lại giữa ba nơi này, dựa vào những vết xóa có thể nhận ra, người vẽ vốn hy vọng ai có được bản đồ sẽ đến nơi ở giữa trước tiên, nhưng sau tính toán thế nào lại xóa mờ thứ ở giữa và đầu mũi tên đi, ý nói không cần phải đến nơi ấy nữa. Mới đầu bọn y còn nghi ngờ không hiểu có ai đã đụng tay đụng chân vào tấm bản đồ này hay chưa, nhưng sau khi kiểm tra bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật, phát hiện ra vết xóa và các dấu hằn được tạo ra cùng một thời gian với những đường nét khác, hơn nữa thủ pháp và phong cách là của cùng một người, vì vậy chỉ có thể phán đoán là chính người vẽ bản đồ đã thay đổi ý kiến mà thôi.
Bọn y nhận ra được đường chỉ thứ hai dẫn đến một nơi gọi là "đóa hoa". Địa danh ở khu vực phía trên dịch nghĩa là "sáu ngọn núi", bên dưới "sáu ngọn núi" là "đại đài địa" và một địa danh được dịch thành "tổ tiên", bên phải là "bảo tọa mặt trời", kế đó là hai nơi có tên phát âm thành "liangbu", "tabu", ba nơi này ở sát cạnh nhau.
"Tìm thấy rồi, là ở đây, vùng đất hoa sen nở rộ, chính là Mặc Thoát chứ còn đâu nữa, hại tôi tốn bao nhiêu thời gian tìm kiếm…" Merkin hưng phấn kêu lên.
Soares bỏ chiếc kính xuống, ngả người dựa vào sofa, hé miệng thở hắt ra "phì" một tiếng. Mấy tháng vừa rồi, bọn y gần như đã hoàn thành được cả một đại công trình. Các địa danh được chú thích trên bản đồ toàn bộ đều là địa danh cổ từ hơn ngàn năm trước, có rất nhiều tên từ thời Thổ Phồn vương triều hoặc thậm chí là trước đó, thể chữ chuỗi hạt này lại khác hẳn với Tạng văn ngày nay, bọn y phải dò từng con sông, từng ngọn núi một. Hơn thế, Merkin không tin tưởng vào người khác, tất cả công việc tìm kiếm tư liệu đều phải do bọn y tự thực hiện. Tuy nhiên cũng rất may là, tấm bản đồ này dường như được chuẩn bị cho người không thể tìm được đường, người vẽ ra nó đã chú thích rất tường tận từng địa danh, tên núi, tên sông, chỉ còn mỗi ba nơi cuối cùng kia là đều vẽ ra một ký hiệu Ung Trọng trông như vòng xoáy, dịch ra tiếng hiện đại thì không phải Bạc Ba La, mà là… cái rốn!
Sau khi khôi phục thể lực chừng một tháng, Lữ Cánh Nam đem những điều tâm đắc mọi người viết ra để tổng kết một cách tường tận, đồng thời bắt đầu tiến hành huấn luyện có tính định hướng. Lại một tháng nữa trôi qua, Lữ Cánh Nam đứng trên bục giảng, tay cầm một vật bằng gỗ gần giống như cục rubik, nói với các học viên: "Kể từ hôm nay, mọi người sẽ học môn cuối cùng, và cũng là môn nguy hiểm nhất - cơ quan học!"
Các học viên đều lộ ra vẻ hoan hỉ mừng rỡ. Trác Mộc Cường Ba rõ là có nhu cầu bức thiết muốn biết các tri thức liên quan tới cơ quan học, nhưng người hưng phấn nhất thì phải là Trương Lập. Anh chàng này từ lâu đã ngưỡng mộ môn học này, đồng thời cũng đã tìm hiểu sơ bộ về máy móc trang bị và cách chế tạo một số cạm bẫy đơn giản rồi.
"Thử cho tôi biết xem, mọi người hiểu thế nào về "cơ quan"?" Lữ Cánh Nam bình thản nói.
"Cạm bẫy", "vũ khí giết người", "vũ khí có thể tự động giết người", bên dưới lập tức vang lên nhiều đáp án khác nhau.
Lữ Cánh Nam lại nói: "Thứ gọi là cơ quan, hoàn toàn không chỉ có nghĩa hẹp là cạm bẫy giết người, vũ khí tự động tấn công như mọi người vẫn tưởng, mà chỉ là tất cả các thứ có kết cấu bằng lẫy chốt, lớn thì như mộng, như chốt, rường xà cột kèo trong các công trình kiến trúc, nhỏ thì là một ổ khóa sắt, còng sắt, tất cả đều có quan hệ với cơ quan học cả. Trong số mọi người ở đây, ngoài lạt ma Á La và chú Mao Lạp ra, những người còn lại e rằng đều rất lạ lẫm với môn học này. Nếu muốn tinh thông cơ quan học, chỉ sợ nghiên cứu cả đời cũng khó hoàn thành được hết các hạng mục, vì vậy, thứ chúng ta cần học, chỉ là tư duy phát hiện mấu chốt của cơ quan, đồng thời phán đoán được cấu tạo của nó mà thôi, cũng chính là tránh cạm bẫy giết người, phát hiện cửa ngầm bí mật mà người ta vẫn thường nói tới. Chỉ riêng khoản này, cũng đủ cho mọi người học hết hơn nửa năm rồi đấy." Đến đây, cô giơ tay lên nói: "Đây chính là một cơ quan, mỗi người một chiếc, tự lên lấy xuống đi."
Mỗi người bước lên nhặt một khối lập phương bằng gỗ, rồi lại trở về chỗ ngồi của mình. Trác Mộc Cường Ba cầm khối gỗ trên tay, phát hiện ra hình lập phương này do những khối gỗ nhỏ bề ngang, chiều dày đều một centimet, chiều dài mười centimet ghép lại mà thành, đan xen chằng chịt, bên ngoài trơn nhẵn tựa như là một khối chỉnh thể, rất khó tách rời. Xoay xoay vặn vặn một lúc lâu mà cũng không phát hiện ra lẫy chốt gì bên trong, gã nhủ thầm trong bụng: "Cái này thì là cơ quan gì chứ? Có phải định bịp người ta không đây?"
Lữ Cánh Nam nói: "Thứ mọi người đang cầm trong tay lúc này, chính là cơ quan nguyên thủy nhất, và cũng đơn giản nhất, gọi là khóa gỗ, ở cửa hàng đồ chơi cho người lớn hay đồ chơi trí tuệ đều có bán, hai nhân dân tệ một cái."
Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: "Quả nhiên là gạt người."
Lữ Cánh Nam lại mỉm cười nói tiếp: "Mọi người đừng coi thường thứ này không có gì đặc biệt, thực ra bên trong nó là kết tinh trí tuệ của cổ nhân đó. Nhìn bề ngoài thì các khối gỗ nhỏ đều giống hệt nhau cả, kỳ thực chỉ có mặt ngoài mọi người mới nhìn thấy giống nhau thôi, còn bên trong thì hết sức chằng chịt phức tạp, có hình móc, có hình vòng, có khối gồ lên ở giữa, có khối hõm vào. Tổng cộng có sáu mươi tư khối gỗ nhỏ, có thể tách rời hẳn ra, bây giờ mọi người bắt đầu chia tách chúng ra đi, xem thử khả năng thiên phú về cơ quan học của từng người đến đâu."
Tất cả học viên đều bắt đầu tách khóa gỗ. Trác Mộc Cường Ba lần mò một lúc, ngoảnh đầu nhìn về phía giáo sư Phương Tân, thấy ông đang ấn một khối gỗ nhỏ ở giữa khối lập phương ra một đoạn, lập tức được gợi ý, vội dùng sức ấn vào giữa hình lập phương, nhưng đã ấn cả sáu mặt rồi cũng không thấy khối lập phương ấy lơi lỏng ra một chút nào. Mười phút trôi qua, Trác Mộc Cường Ba mặt đẫm mồ hôi, Nhạc Dương và Trương Lập thì chúi đầu vào một chỗ rì rầm bàn tán, Ba Tang ngấm ngầm nhíu chặt đôi mày, đến cả Đường Mẫn cũng rầu rĩ không làm được gì, chỉ có hai ông già là vẫn ung dung thoải mái, lạt ma Á La thậm chí còn rút hẳn một khối gỗ nhỏ ra ngoài, kế đó thì như Bào Đinh mổ trâu 3, càng làm càng nhanh.
Lữ Cánh Nam nhìn mọi người mà thầm thấy tức cười, bèn lên tiếng nhắc nhở: "Không cần phải trao đổi kinh nghiệm đâu, mỗi cái khóa gỗ đó đều có kết cấu bên trong khác nhau. Mấu chốt của việc mở khóa gỗ, chính là thuận theo kết cấu bên trong của nó, từng bước từng bước một tách ra. Điểm khó ở đây là mọi người không nhìn thấy kết cấu bên trong của khóa như thế nào, chỉ có thể tự lần mò thôi."
Nghe Lữ Cánh Nam nhắc nhở, Trương Lập dường như đã tìm ra được bí quyết gì đó, anh kéo khối gỗ này ra một chút, rồi lại ấn khối kia xuống một chút, nhấc khối bên trái lên, kéo khối bên phải xuống, lúc không di động được nữa, thì đẩy ngược trở về theo quỹ đạo ban đầu, thử nghiệm một phương cách di động khác. Còn Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng tìm ra được một khối gỗ có thể di động, hóa ra là ở góc phía trên bên phải của một mặt hình lập phương, nhưng sau khi ấn nó ra, thì các khối gỗ khác lại không động cựa gì được nữa, gã đành phải thử đi thử lại từng khối một. Riêng lạt ma Á La thì đã tháo hết cái khóa gỗ của mình ra, sáu mươi tư khối gỗ nhỏ khác nhau xếp ngay ngắn trên mặt bàn.
Kế đó, Trương Lập, giáo sư Phương Tân, Ba Tang, Đường Mẫn, Nhạc Dương cũng đều tháo được khóa gỗ, chỉ còn mỗi Trác Mộc Cường Ba, trên trán gân xanh nổi chằng chịt, hai mắt đỏ ngầu, cơ bắp gồ lên, nghiến răng nghiến lợi ấn ấn xoay xoay. Chỉ nghe "cạch" một tiếng khe khẽ, miếng gỗ tưởng chừng như sắp rút ra được tới nơi, đến cuối cùng lại kẹt ở bên trong khối lập phương. Trác Mộc Cường Ba kéo hai ba lượt vẫn không ra, liền dùng sức, làm gãy luôn.
Tất cả mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía gã. Nhạc Dương và Trương Lập lập tức phát ra một tiếng kêu đầy tiếc nuối. Trác Mộc Cường Ba đập cái khóa gỗ xuống bàn, thở hồng hộc. Đường Mẫn vội lên tiếng: "Anh nôn nóng quá.""Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, cái thứ này muốn nhanh cũng không nhanh được đâu." Nhạc Dương cũng lên tiếng chia sẻ kinh nghiệm.
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam: "Năng khiếu của tôi không đủ, cho tôi thử lại lần nữa."
Lữ Cánh Nam mỉm cười giơ một ngón tay lên nói: "Đừng nóng, sớm đã chuẩn bị rồi." Nói đoạn, không ngờ lại lấy ra một khối lập phương bằng thép ròng, nhìn bề ngoài giống hệt như khóa gỗ…
Ba giờ sáng, Nhạc Dương trằn trọc mãi vẫn chưa ngủ được, đành bò dậy dụi dụi mắt nói: "Cường Ba thiếu gia, sáng mai anh làm tiếp có được không, tôi nghe cái tiếng động ấy cứ thấy như có chuột vậy đó."
Trác Mộc Cường Ba tập trung toàn bộ tinh thần vặn vẹo khối lập phương bằng sắt trên tay, lơ đễnh nói: "Chuột thì sợ gì chứ, nhắm mắt vào nghĩ mình là mèo tự nhiên sẽ ngủ được thôi." Trương Lập ở bên cạnh mở mắt ra nói: "Cường Ba thiếu gia, hay là, để chúng tôi làm giúp anh nhé."
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Thế làm sao được, các cậu mặc kệ tôi đi, nhất định tôi phải tháo được nó ra."
Lăn qua lăn lại mãi đến hơn bốn giờ sáng, hai người Nhạc Dương và Trương Lập mới thiêm thiếp ngủ. Ngày hôm sau, khi hai người bò dậy, đã thấy Trác Mộc Cường Ba ngồi ngắm vầng dương mới lên. Dưới ánh nắng rực rỡ, gương mặt cương nghị đường nét rõ ràng ấy toát lên vẻ tự tin vô tận. Trên mặt bàn, xếp gọn ghẽ chỉnh tề tám tám sáu mươi tư khối thép.
Lữ Cánh Nam nhìn thành quả Trác Mộc Cường Ba giao lên, nhận thức đối với gã lại tăng thêm mấy phần nữa. Gã là một người đàn ông biết sợ hãi. Nghe lạt ma Á La kể, trong rừng Mãng Xà và ở dưới địa cung, Trác Mộc Cường Ba đã để lộ ra nỗi sợ hãi đằng sau ngoại hình cao lớn mạnh mẽ ấy. Nhưng gã sợ hãi, mà không hề có ý thoái lui. Gã có sự dẻo dai giống như của cao su vậy, bất kể bị đả kích nặng nề ra sao, thế nào cũng dần hồi phục lại nguyên hình trạng. Chỉ cần không đạt tới yêu cầu của chính bản thân mình đặt ra, gã sẽ mãi mãi không bao giờ bỏ cuộc. Tính cách này đúng là hết sức kỳ quái, nếu là người bình thường, sợ hãi ắt sẽ trốn tránh, khi tin chắc mình không phải là đối thủ của người khác, ắt sẽ lảng tránh; nhưng Trác Mộc Cường Ba vừa hay lại trái ngược hoàn toàn, gã sợ hãi ắt sẽ bước thẳng tới mà nghênh đón, biết rõ mình không đánh lại người ta cũng vẫn muốn xông tới, thoạt nhìn bề ngoài thì có vẻ hơi ngốc nghếch, tính cách gì mà như vậy chứ! Lữ Cánh Nam nhớ lại từ khi quen biết Trác Mộc Cường Ba đến giờ, nhất cử nhất động của gã đều gây cho cô một cảm giác không thể đoán biết. "Hừ, đại trí giả ngu, đây cũng là đại trí giả ngu hay sao?" Nhớ lại lời lạt ma Á La đã nói, cô không khỏi khe khẽ mỉm cười.
Mấy tháng tiếp sau đó, các thành viên trong nhóm đều trải qua một đợt huấn luyện đặc biệt về các kiến thức liên quan đến cơ quan học, bắt đầu học từ loại cạm bẫy nhi đồng đơn giản nhất, tức là đào hố dưới đất, lót tờ báo rồi vùi cát lên trên, kế đó là tới trận xe gỗ ngựa gỗ của Gia Cát Lượng, Cứu Lưu Bàn Long Thần của Quỷ Cốc Tử, càng học lại càng thấy môn cơ quan học này đúng là cao thâm khó dò.
Bí mật huyết trì
Trải qua khảo nghiệm trong rừng sâu Nam Mỹ, các thành viên trong nhóm đều nhận ra điểm yếu của mình, ai cũng gần như điên cuồng tham gia huấn luyện, ban ngày vượt qua khảo nghiệm của đủ loại các cơ quan cạm bẫy, tối về lại thường đọc sách đến tận đêm khuya. Mỗi người đều rèn luyện bản thân bằng ý chí của một mật tu giả, gắng sức đột phá cực hạn năng lực cơ thể.
Trong thời gian này, Lữ Cánh Nam đồng thời để các đội viên tiến hành phát triển cá nhân, thực hiện vận động cực hạn, hay nghiên cứu các tác phẩm học thuật nổi tiếng như Thuyết tiến hóa…, ngoài ra còn dạy họ sử dụng mấy loại công cụ mới. Ví dụ như lắp thêm dây quăng vào đồng hồ nguyên tử đeo trên tay mỗi người, quấn vào mặt bên trong áp với cổ tay, kích thướt chừng bằng một hộp diêm, bên trong có hai mươi lăm mét dây hợp kim, phát xạ dựa trên nguyên lý của pháo điện từ, một đầu trước có đầu mũi khoan nhỏ bằng kim cương, có thể đâm sâu mười phân vào bề mặt kim loại, sau đó tự động dãn nở bắt chặt vào mục tiêu, thứ này thuộc loại dụng cụ cứu sinh, trong rừng sâu mà dùng loại này thì tiện hơn dây leo rất nhiều. Ngoài ra còn có loại giày dính chặt được vào mặt tường trơn nhẵn, ứng dụng nguyên lý bàn chân con thằn lằn: đế giày có rất nhiều lông cứng theo nguyên lý ống siphon, khiến lực ma sát có thể chịu được trọng lượng của cơ thể người, ngoài ra còn lắp thêm lò xo giảm xóc hình cung, khiến một cú nhảy có thể cao ngang tầm người bình thường, còn xung lực lúc rơi xuống hoàn toàn có thể vận dụng để thực hiện các vận động cực hạn, cộng thêm với áo cánh dơi thiết kế dựa theo cánh thịt của sóc bay, vậy là có thể tránh được trường hợp độ cao mười tầng nhà gây khó cho anh hùng rồi. Hoặc là bình sắt siêu cường hóa mặc dù thể thể tích chưa đầy lọ mực, nhưng thời gian cung cấp dưỡng khí từ ba tiếng đồng hồ ban đầu đã kéo dài lên một trăm linh tám tiếng đồng hồ.
Khoảng thời gian này, Trác Mộc Cường Ba cũng không còn thúc giục đòi xuất phát nữa. "Anh dựa vào cái gì mà đi tìm Bạc Ba La thần miếu, vận may hả?""Điều anh cần làm lúc này, chính là xem nhiều, học nhiều, nghĩ nhiều…""Chúng ta đứng trên vai người khổng lồ để thu thập thông tin.""Nếu ngày đó đến thật, chúng ta có thể tự mình đi mà…" Những lời Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói hết lần này đến lần khác vang vọng bên tai, không ngừng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba. Những lúc nghỉ ngơi, gã thường ở bên Đường Mẫn, nhưng gã cũng thường xuyên cảm nhận được, có một bóng hình yểu điệu đang đứng ở mãi đằng xa chăm chú nhìn mình. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang đã trở nên thân thiện hơn rất nhiều, thường xuyên nghe thấy hai người Trương, Nhạc cất tiếng cười sảng khoái, cả Ba Tang thỉnh thoảng cũng nở ra một nụ cười lạnh lùng. Còn giáo sư Phương Tân thì mải mê nghiên cứu băng video ông quay được dưới địa cung Ah Puch. Theo giáo sư, nếu đã cho rằng địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan với nhau, vậy thì các bức bích họa, tượng điêu khắc trong địa cung Ah Puch, tất cả đều có thể gợi ra những thông tin có liên quan tới Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia. Phía nhóm nghiên cứu cũng cung cấp cho giáo sư rất nhiều đầu mối. Cùng nghiên cứu thông qua mạng truyenfull.vn, tác phong cẩn trọng và thái độ làm việc không biết mệt mỏi đó của giáo sư khiến cả lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam đều hết sức nể phục. Có điều, câu đố lịch sử mà hai nền văn minh Cổ Cách và Maya để lại có thể nói là một cái hang không đáy, giáo sư Phương Tân bước chân vào đó, càng đi càng thấy sâu, khiến hai trợ thủ của ông là Trương Lập và Nhạc Dương cứ kêu trời kêu đất, phàn nàn rằng làm việc này còn khổ hơn cả huấn luyện nữa. Mỗi lần như vậy, giáo sư Phương Tân lại lấy Đường Mẫn ra làm tấm gương giáo dục hai chàng thanh niên này phải có lòng nhẫn nại, có lòng tin, có trái tim yêu thương…
Núi Đường Cổ Lạp, bên bờ sông Đà, một chiếc xe tải lớn nhìn bề ngoài như sắp muốn long ra xong xọc đến nơi tròng trành đi giữa dải núi non trập trùng.
Tây Mễ ngồi bên ghế lái phụ thưởng ngoạn phong cảnh trước mắt. Hắn thích vùng đất này, thích núi non ở đây, thích mây trời ở đây. Không thể không thừa nhận, nơi này đích thực là một vùng đất có thể khiến người ta vui ngắm cảnh mà quên cả đường về. Một điều càng hay hơn nữa là, khi nhìn những đám mây trắng muốt bay qua bầu trời, cảm giác tội lỗi trong lòng hắn sẽ bị đè nén xuống. Năm ấy Tây Mễ chọn Khả Khả Tây Lý, có lẽ cũng chính là một dải tuyết trắng mênh mang ở đây mênh mang ở đấy hấp dẫn cũng nên.
Gã đang lái xe kia tên là Dakis, cao một mét bảy lăm, hơi gầy, dưới cặp lông mày thẳng như hai chữ "nhất" là đôi mắt giống hình thang. Có người nói, kẻ có đôi mắt này thì rất hung hăng, cảm giác như đang miệt thị người khác vậy, mà tên Dakis này đích thực là cũng rất hung hăng. Hắn gia nhập Hồ Lang chưa được hai năm, vậy mà đã không kẻ nào dám đụng đến hắn nữa. "Lôi Ba khỏe, Dakis ác", câu này từ lâu đã lan truyền trong nội bộ Hồ Lang. Số đội viên đội tuần tra núi Khả Khả Tây Lý bị tên Dakis này giết trong hai năm còn nhiều hơn tổng số đội viên bị toàn bộ Hồ Lang giết trong mười năm về trước. Hồ Tử nói, da của Dakis lột là bán được giá tốt nhất, nếu không phải hắn có một chút tác dụng này, thì từ khi Hồ Lang bị quân đội bao vây sào huyệt, Tây Mễ đã thịt hắn luôn rồi. Bởi chính vì tên này hung tàn thành tính mới khiến quân đội phải bao vây tiễu trừ toàn bộ tổ chức của bọn hắn.
Niềm đam mê lột da của Dakis là một loại bệnh thái. Mỗi khi lóc thịt linh dương Tây Tạng, hai mắt y sáng rực lên, miệng ngâm nga một điệu nhạc nào đó, dáng điệu vô cùng thỏa mãn. Tây Mễ hiểu rõ, từ hồi còn trong đội đặc nhiệm Nhện Xanh hắn đã được dạy rằng, loại người này có vấn đề về tâm lý, ở phương Tây còn có thuật ngữ y học chuyên dụng, gọi là "hội chứng thích phân tách", bọn họ thích phân tách tất cả các thứ mình nhìn thấy ra, không tách ra một cách triệt để thì trong lòng không thể nào thỏa mãn được. Loại người này mỗi khi giết người, bao giờ cũng chặt xác nạn nhân ra làm bảy tám chín mảnh. Mấy tên giết người hàng loạt nổi tiếng nhất ở phương Tây gần như đều mắc phải chứng bệnh này.
Dakis bảo mình là người Tạng ở Thanh Hải, Tây Mễ thấy không giống lắm. Không giống người Tạng, gương mặt hắn không có vẻ chân chất mộc mạc của dân Tạng, cũng không giống người Mông Cổ. Có điều cũng không ai truy vấn hắn, sau khi hắn giết đội viên đội tuần tra núi cũng như giết linh dương Tây Tạng, thì không còn ai dám nghi ngờ hắn là nội gián nằm vùng nữa.
Tây Mễ thu ánh mắt lại, quay sang nhìn bàn tay Dakis. Tay hắn rất vững, trên con đường núi tròng trành rung lắc, bàn tay nắm vô lăng không hề động đậy, cẳng tay phải hồi trước có lẽ có một hình xăm, có điều giờ chỗ đó là một vết sẹo thịt dài, song không giống đốt bằng tia laze. Thấy Tây Mễ chú ý nhìn mình, Dakis giơ tay lên quẹt quẹt mũi, nói: "Không đẹp được như hình xăm của đại ca đâu, hồi trước xăm con thằn lằn, về sau sợ bị truy nã, sợ bị người ta nhận ra, liền lấy dao cắt luôn chỗ thịt ấy đi." Tây Mễ không nói gì, tiếp tục ngắm nhìn trời xanh mây trắng và dòng sông Đà Đà như dải ngọc kia.
Sau xe ngồi chật người, Max cũng ở trong đám này. Khi ông chủ không có mặt, hắn cũng không dám làm ra vẻ khâm sai đại thần trước mặt cái đám liều mạng này. Hắn cẩn thận khuyên nhủ để Tây Mễ lên ngồi ghế lái phụ, còn mình thì ở phía sau với Thiết Quân, dù sao thì hắn cũng quen Thiết Quân một thời gian rồi. Ngồi trong thùng xe lắc lư, Max nhớ lại nhiệm vụ ông chủ đã giao cho hắn nửa tháng trước, "Max, mày mang tấm bản đồ này đến Trung Quốc trước, chuyện này phải làm cho tốt."
Thụ táng
Khu vực không người trên hoang mạc, phóng mắt nhìn ra chỉ thấy một dải cát dài tít tắp, tháp cao san sát, gió thổi đá chạy, một đoàn người xếp hàng một, trông tựa như một con sâu dài nhiều chân lặc lè bò trên cao nguyên hoàng thổ. Leo lên ngọn đồi cao nhất khu vực, bốn ngàn mét so với mực nước biển, gió lạnh thổi qua, tinh thần con người cũng thêm phần phấn chấn, Merkin bít một hơi khí lạnh: "Con đường quỷ quái này, rốt cuộc còn bao xa nữa đây?"
Soares cười gằn lạnh lẽo: "Thánh sứ, không tìm được đường nữa à?"
Merkin nổi giận nói: "Tôi đã bảo bao nhiêu lần rồi, tôi cũng không biết tại sao mình lại thành thánh cái gì sứ cái gì đó, thật sự là họ không hề nói gì với tôi cả. Giờ không có cái đám người ấy, đừng gọi tôi như vậy nữa." Y ngoảnh sang nhìn Soares, hết sức thành khẩn nói. "Tin tôi đi, Soares, ngoài chuyện huyết trì lần trước, tôi không hề giấu giếm anh bất cứ việc gì nữa."
Soares chỉ cười cười không tỏ thái độ gì, tiếp tục tiến lên. Max đi sau thấy vậy, khẽ nhếch mép lên cười.
Vì không có đường, hơn nữa đâu đâu cũng thấy đồi gò đất san sát như rừng, người không quen đường thuộc lối căn bản không thể điều khiển xe đi trong khu vực này được. Năm chiếc xe của bọn Merkin đều hỏng dọc đường, cả bọn đều phải đeo những chiếc ba lô nặng nề cuốc bộ tiến lên. Đây là vùng Tây Nam khu vực A Lý, trong vòng hai trăm kilomet vuông không thấy một bóng người sinh sống, cách di chỉ Cổ Cách chừng hơn trăm kilomet, kết cấu địa lý cực kỳ đặc biệt, được gọi là "thổ lâm" (rừng đất).
Địa mạo "núi rừng bằng đất" đặc biệt này, là do tầng trầm tích dưới đáy hồ nơi đây từ thời viễn cổ bị ảnh hưởng bởi quá trình tạo sơn của dãy Himalaya, mực nước hạ xuống, đáy hồ nâng lên, đồng thời bị khí hậu biến đổi và nước sông xói mòn cắt xẻ mà hình thành nên. Vách núi dựng đứng hiểm trở thoạt nhìn tựa như những tòa thành, tháp canh, tháp Phật nguy nga hùng vĩ, muôn hình vạn trạng, tráng lệ vô cùng.
Soares lấy bản đồ ra, nói: "Theo lời tên nhỏ con kia, chắc là ở ngay gần đây thôi, A Nam Tháp đang ngủ say, A Nam Tháp, bên kia…" Ở hướng Soares chỉ tay, chỉ thấy rừng đất cao lớn tựa như vô số tòa linh tháp khổng lồ đứng san sát cạnh nhau, xoáy thành hình rồng, nếu không phải lên cao nhìn xa, ở giữa nơi ấy thì căn bản không thể phân biệt được.
Merkin vung tay lên ra lệnh: "Chạy tới đó!"
Hai tiếng đồng hồ sau, đám người này cũng đến được dưới chân khu rừng đất, trong mắt đều lộ ra vẻ kinh ngạc. Merkin nhếch mép lên nói: "A, khó mà tin nổi."
Phía trước gò đất nhô cao, mặt đất nứt nẻ, sườn dốc san sát nối nhau như bát úp, hang đất trùng trùng điệp điệp như tổ ong, từ trái sang phải, nhìn ngút tầm mắt mà cũng không thấy hết, khiến người ta có cảm giác nơi này chẳng phải cao nguyên Tây Tạng, mà như hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng vậy. "Trái tim của A Nam Tháp, ẩn chứa ánh sáng màu bạc…" Merkin lẩm bẩm nói, rồi nhìn theo hướng chạy của khu rừng đất. Chỉ thấy những gò những đồi san sát nhau nhấp nhô trải dài từ hướng Tây sang hướng Bắc, ngoằn ngoèo uốn khúc, tựa như một con rồng khổng lồ đang ngóc đầu lên cao, muốn xé toang không gian mà đi. Bọn y lúc này chính là đang đứng ở đuôi rồng. Merkin búng ngón tay đánh "tách" một tiếng: "Hướng Bắc, hướng Bắc."
Vì hai bên đại hiệp cốc đều là cao nguyên cao mấy ngàn mét so với mực nước biển, địa hình sông kẹp giữa núi thế này sẽ khiến không khí bị thổi vào hiệp cốc sẽ chỉ có thể tiến ra theo một hướng duy nhất. Gió giống như nước triều, từng đợt từng đợt hết sức mãnh liệt, gió lớn có thể thổi cho sợi xích nặng nề đung đưa không ngớt, người ở trên dây cũng gian nguy chẳng kém gì gặp phải cơn sóng thần trên biển lớn.
Cơn gió lạnh làm Đường Mẫn chao đảo trên dây xích như con diều đứt dây, liên tiếp đảo lộn mấy vòng, mắt trợn ngược lên, bàn tay bám vào sợi thừng mỗi lúc một lơi dần. Nhìn Đường Mẫn rơi vào tình cảnh ấy, Lữ Cánh Nam nôn nóng kêu lên: "Không được rồi, cô ấy không trụ được đâu, tôi phải đi kéo cô ấy về. Gió đã ngừng chưa?"
Bỗng chợt nghe Nhạc Dương kêu toáng lên: "Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia qua rồi!"
Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba quấn chặt sợi dây nối với bánh xe trượt vào cổ tay, một tay giữ dây trượt, nhanh chóng lướt về phía Đường Mẫn, đúng trong khoảnh khắc gió vừa ngừng, người vừa rơi xuống, gã đã tựa như chim éo điểm nước, ôm Đường Mẫn vào lòng, rồi lao vút về phía bên này. Trương Lập lẩm bẩm nói: "Chà, thân thủ Cường Ba thiếu gia khá thật, nếu đến đoàn xiếc diễn tạp kỹ, đảm bảo là có nhiều người đến xem lắm." Lữ Cánh Nam chỉ khẽ hừ một tiếng, hàng lông mày càng nhíu chặt lại.
Trác Mộc Cường Ba cởi ba lô, đặt Đường Mẫn xuống đất, chỉ thấy sắc mặt cô trắng bệch như tờ giấy trắng, môi tái xanh đen, ý thức mơ hồ, không ngờ đến cả hơi thở cũng đã ngưng lại, gã vội vàng giúp cô hô hấp nhân tạo. Đè bốn thở một, chính là ấn ngực bốn lần, rồi miệng áp miệng hô hấp một lần, làm như vậy mấy lượt liền, Đường Mẫn mới khẽ khục khặc ho một tiếng, cuối cùng cũng coi như hô hấp được bình thường trở lại.
Cô từ từ mở mắt ra, trông thấy gương mặt mơ hồ cùng đôi mắt chan chứa sự quan tâm của Trác Mộc Cường Ba, khẽ thở hắt ra một hơi: "Em… không phải em… cố ý đâu."
Trác Mộc Cường Ba ôm chặt Đường Mẫn, nhẹ nhàng an ủi: "Anh biết mà, anh biết, không ai trách em đâu."
Nhạc Dương và Trương Lập đứng bên cạnh thấp giọng rì rầm: "Khóc, khóc, lại khóc rồi…" Đến giờ thì tính hay khóc của Đường Mẫn đã được thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt quen thuộc hết, chỉ cần miệng cô hơi dẩu lên, mắt ươn ướt đỏ, là đã đủ khiến các thành viên trong nhóm phải đề cao cảnh giác rồi, đến cả lạt ma Á La cũng phải nói cô bé này nước mắt nhiều như nước suối, có trời mới hiểu cô lấy đâu ra nhiều nước mắt đến thế, cứ như thể mãi mãi không hết, dùng mãi không kiệt vậy. Tiếng khóc của Đường Mẫn gần như đã thành vũ khí tối thượng của nhóm học viên, cộng với cô là người nhỏ tuổi nhất ở đây, Trương Lập và Nhạc Dương đã lén đặt cho cô một cái biệt danh, gọi là "công chúa nước mũi".
Giáo sư Phương Tân cốc vào sau gáy mỗi người một cái, đùa cợt thế nào thì cũng có giới hạn của nó.
Không ngờ, lần này biểu hiện của Đường Mẫn lại khác hẳn dự đoán của hai anh chàng Trương, Nhạc, cô không rơi lấy một giọt nước mắt nào. Trương Lập thầm nhủ: "Chẳng lẽ là vì giáo quan cũng ở đây?" Anh chàng quay đầu lại nhìn Lữ Cánh Nam, không biết cô đã tách ra khỏi nhóm từ lúc nào, một mình đứng bên bờ vực cho gió thổi. Ba Tang thì đứng ở một phía khác của vách đá ngẩng đầu lên nhìn sắc trời. Trương Lập cũng ngước nhìn lên bầu không; chỉ thấy từng đóa mây trắng lững lờ trôi quá, vươn tay ra là có thể chạm tới, nhưng vừa trông thấy điệu bộ của Ba Tang, anh liền không khỏi lạnh hết cả người: "Thời tiết quỷ quái này, bảo thay đổi là thay đổi luôn, chắc là không xuất hiện thiên tai gì nữa đấy chứ?"
Vì sự việc của Đường Mẫn, tốc độ của cả đoàn đã chậm lại. Sau khi vượt qua đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, mấy người cứ nhắm hướng Đông Nam thẳng tiến. Dọc đường núi non trùng trùng điệp điệp, đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, lưng chừng núi cây xanh rợp bóng, chân núi hoa tươi nở rộ, hồng tím đủ màu. Đây chính là cảnh quan đặc hữu của vùng này… một ngọn núi có đủ bốn mùa, mỗi núi một phong cảnh riêng. Đường núi dốc ngược, rừng sâu cây cối um tùm, thi thoảng lại có vài cánh chim chao liệng ngang trời, chốc chốc lại có dã thú chạy cắt ngang đường, bọn họ đi một mạch đến lúc trời tối, không khí mờ mịt sương mù, trời lại rải xuống một cơn mưa lất phất, đường trơn khó đi, cả đoàn liền dừng lại ở một chỗ bằng phẳng bên cạnh khe núi dựng trại qua đêm. Bốn phía xung quanh cây cối cao lớn, che kín cả bầu trời, giáo sư Phương Tân phóng mắt nhìn qua, không giấu nổi niềm cảm khái dâng trào: "Rừng bách lớn quá!"
Cây bách ở khu vực Lâm Chi khác với vân sam, hay cây bạch đàn ở rừng già Nam Mỹ, nếu cùng cao bốn mươi mét, thì cây ở châu Mỹ có thể nói là thẳng tắp mà thanh tú, còn bách khổng lồ ở Lâm Chi lại to lớn hùng vĩ. Tán cây xòe rộng như một chiếc ô khổng lồ, chiếm tới quá nửa thân cây, cành và rẽ cũng rất to lớn, trên cành cây có vô số những u những bướu hình dạng khác nhau, chính nhờ vậy mà cây bách ở đây rất dễ trèo.
Sau khi chọn xong nơi cắm trại, mọi người chia nhau làm việc. Hai người Trương Lập, Nhạc Dương phụ trách thăm dò xung quanh, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang khỏe mạnh lo việc cắm trại, chặt cây đốt lửa, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La thì dựa vào kinh nghiệm cũng như tri thức phong phú của mình tiến hành trao đổi nghiên cứu khoa học, còn Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn thì phụ trách việc hậu cần. Đường Mẫn chỉ bị kinh hoảng một lúc chứ không tổn thương gì nên hồi phục rất nhanh.
Trương Lập than vãn với Nhạc Dương: "Phải thăm dò đến tít cái gò cao kia, xa quá đi mất, còn việc của giáo quan thì nhẹ nhàng quá, chỉ cần sắp xếp mấy cái ba lô, lấy đồ ăn ra là xong rồi."
Lữ Cánh Nam đứng sau lưng anh chàng cất tiếng: "Chưa từng nghe nói phải tôn trọng phụ nữ bao giờ hả?"
Trương Lập tức khắc run như cầy sấy, đến thở mạnh cũng không dám. Nhạc Dương thấy vậy thì cười thầm trong bụng, tiện miệng hỏi luôn: "Giáo quan, gần đây chắc không có loại dã thú nào nguy hiểm đấy chứ? Đừng có giống như lần trước…"
Lữ Cánh Nam ngắt lời anh chàng: "Sử dụng những gì các cậu học được, tự trả lời câu hỏi này đi."
Nhạc Dương le lưỡi, lần này thời gian chuẩn bị không được đầy đủ lắm, cả bọn đều nghĩ đến chiếc máy tính chứa đủ thứ thông tin bao la vạn tượng của giáo sư Phương Tân, đoán chắc có mượn tra cứu một chút cũng không sao, chẳng ngờ hòn đảo cô độc trên cao nguyên này có hoàn cảnh địa lý hết sức đặc thù, nên đã sản sinh ra đủ các loại sinh vật kỳ quái hiếm thấy trên đời, chỉ nhìn lướt qua một lượt, các loại sinh vật nguy hiểm đã phải dùng con số hàng trăm làm đơn vị tính rồi. Trương Lập và Nhạc Dương cúi đầu ủ rũ, xem ra lần này hai người họ phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần đi thăm dò địa hình xung quanh đây rồi. Lữ Cánh Nam vẫn chưa yên tâm, trước khi họ đi lại nhắc nhở phải chú ý quan sát lực bám đất của cây cỏ, và mức độ xốp của thổ nhưỡng vùng này. Cô ngước mắt nhìn lên không trung lẩm bẩm: "Mưa mà lớn hơn nữa, các cậu cũng biết tình huống tệ nhất sẽ là như thế nào rồi đấy."
Một lát sau, Trương Lập và Nhạc Dương quay lại, không phát hiện ra dã thú gì nguy hiểm, cũng không tìm được xung quanh có dấu vết của con người sinh sống.
Lữ Cánh Nam nói: "Chỗ này ở sâu trong núi, rất khó phát hiện được người sinh sống ở đây. Ăn cơm xong mọi người nghỉ ngơi cho tốt, ngày mai còn phải đi hết một ngày đường mới đến đích đó."
Sau bữa cơm, Lữ Cánh Nam có vẻ rất thần bí kéo Đường Mẫn vào lều, Nhạc Dương tinh mắt đã ngấm ngầm lưu ý, không hiểu ra sao, vì chuyện này trừ trước đến giờ chưa từng xảy ra lần nào. Anh chàng thầm nhủ, có lẽ nào là do giáo quan ghen tuông, muốn nhân lúc hạ trại nghỉ ngơi mà báo thù Đường Mẫn chăng?
Mưa lớn dần, lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân thu dọn các thứ máy móc, cả hai đều chau mày lại. Giáo sư Phương Tân nói: "Độ dốc sườn núi phía Bắc lớn quá, thổ nhưỡng có tính acid yếu, một phần là sa thạch, rất dễ vỡ vụn. Nếu mưa lớn thêm chút nữa, chỉ sợ sẽ có đất đá trôi, hơn nữa chỗ này rừng bách phân bố rất thưa thớt, có lẽ trước đây đã từng xảy ra rồi. Đại sư xem, dời chỗ cắm trại ra phía Tây ba trăm mét liệu có tốt hơn một chút không?"
Lạt ma Á La nói: "Thế nhưng chỗ này đã là nơi bằng phẳng cao nhất trong khu vực gần đây rồi, từ lưng chừng núi xuống đến triền núi, có hai rãnh sâu tạo thành hình chữ bát, có lẽ nếu có đất đá trôi thì sẽ trôi qua hai bên trái phải của chúng ta mới đúng. Nếu dịch sang phía Tây, chẳng phải là chúng ta sẽ ở giữa quần thể thụ tán kia hay sao?
Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Nói chuyện với Cánh Nam, nghe ý kiến của cô ấy thế nào đã."
Trong lều, Đường Mẫn ngạc nhiên hỏi: "Có chuyện gì vậy, giáo quan?"
Lữ Cánh Nam ngần ngừ do dự một lúc, rồi mới miễn cưỡng nói: "Mẫn Mẫn, có thể nhờ cô giúp tôi một chuyện nhỏ không?"
Đường Mẫn nói: "Hả?"
Lữ Cánh Nam nói: "Là… là thế này, cúc áo lót của tôi không hiểu sao lại kẹt cứng lại, tôi không cởi ra được, cứ côm côm ở lưng thế nào ấy, tôi muốn nhờ cô…"
Đường Mẫn nói: "Chậc, tôi còn tưởng là vấn đề gì lớn lắm chứ, nào, để tôi giúp cô cởi áo ngoài ra đã…"
Đang chuẩn bị đứng lên, chợt nghe lạt ma Á La ở bên ngoài lều hỏi: "Có thể vào được không?"
"À… được ạ, mời đại sư vào."
Lạt ma Á La vào trong lều, nói với Lữ Cánh Nam: "Theo kết quả quan sát của bọn Trác Mộc Cường Ba, và kết quả trắc định thổ nhưỡng của chúng tôi, nếu trận mưa này tiếp tục, chúng ta cần phải đề phòng có đất đá trôi."
Lữ Cánh Nam nói: "Ừm, tôi biết rồi. Lúc bắt đầu cắm trại, tôi đã chọn kỹ rồi, nhìn thế núi này, nếu xảy ra đất đá trôi, chắc là sẽ xối qua hai bên chúng ta thôi. Nếu đại sư đã nói thế, tôi nay phái người trực đem đi, lưu ý quan sát cẩn thận, như vậy là cũng tương đối ổn thỏa rồi."
Lạt ma Á La đưa mắt nhìn vẻ mặt kỳ quái của Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn, gật đầu bước ra. Mới đi được không xa mấy, đã thấy Nhạc Dương làm bộ thần bí chạy tới, hỏi: "Đại sư, hai người bọn họ trong ấy không có chuyện gì chứ?"
Lạt ma Á La nói: "Chuyện gì là sao?"
Nhạc Dương nói: "Chỉ là tôi hơi ngạc nhiên, trước đây chưa từng thấy giáo quan và cô Mẫn Mẫn thân thiết với nhau như vậy, hôm nay cô Mẫn Mẫn sợ dây thừng làm chậm trễ hành trình của chúng ta, tôi sợ giáo quan sẽ…"
Lạt ma Á La mỉm cười nói: "Giáo quan Cánh Nam không nhỏ nhen như vậy đâu. Ừm, có điều nghe cậu nói, vừa rồi tôi ở trong lều thấy nét mặt hai người bọn họ, cũng hơi kỳ quái thật."
--------------------------------
1 Một vùng thuộc tỉnh Kashmir của Ấn Độ.
2 Đoạn này tác giả viết không rõ ràng, dịch giả trung thành với nguyên tác - (ND)
3 Bào Đinh là một đầu bếp rất giỏi nghề mổ trâu, ông chỉ cần một đường dao là đã có thể mổ phanh cả con trâu ra. (Nam Hoa Kinh, Trang Tử).
4 Địa hình nơi có con sông chảy qua khe hẹp giữa hai ngọn núi.