Mật Mã Tây Tạng
Chương 30 :
Ngày đăng: 19:00 20/04/20
Cánh cửa Địa ngục, Hương Ba La, khi những từ ngữ quen thuộc ấy một lần nữa vang lên bên tai nhóm người ngày, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba nghe nhắc đến Cánh cửa Địa ngục, song theo những gì đã biết, hình nhưng cánh cửa này mở ra con đường xuyên dãy Himalaya. Thật không ngờ, ở nơi xa xăm hẻo lánh như Mặc Thoát này lại được nghe truyền thuyết về Cánh cửa Địa ngục. Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Cậu biết Cánh cửa Địa ngục ở đâu không?"
Chư Phật Mật giáo
Trác Mộc Cường Ba bước hụt một bước, thân thể mất thăng bằng, ngã xuống hố sâu. Ánh sang lóe lên, gã đã trông thấy trông thấy lưỡi đao sáng lấp lánh trong hố. Trong khoảng khắc sinh tử ấy, Trác Mộc Cường Ba bỗng nhiên vươn cả hai tay ra, hai chân đạp mạnh, cả người kẹt lại giữa hai bức tường đá, thân thể lúc này gần như song song với mặt đất, đầu mũi chỉ còn kém chút xíu là chạm phải lưỡi đao. Thì ra, hai phiến đá lát nền thứ ba và thứ tư vốn chỉ là một phiến đá hình chữ nhật hài hai mét rộng một mét, đục lỗ ở giữa, xuyên gậy sắt qua là thành một cái cửa xoay đơn giản, bất kể là giẫm lên phiến đá thứ ba hay thứ tư, cả phiến đá cũng đều lập tức xoay chuyển. Loại cơ quan này, trong cơ quan học gọi là "hoạt bản", vừa đơn giản lại dễ thực hiện, đặc biệt là những nơi nền sàn được lát bằng những phiến đá quy chuẩn mà sắp đặt một vài cơ quan như vậy, bên dưới lại đào hố sâu hai mét, bố trí cọc nhọn hoặc lưỡi đao, thì tỷ lệ sát nhân thành công sẽ cực lớn.
Hai tay hai chân Trác Mộc Cường Ba chống vào hai bên bức tường, chầm chậm leo lên trên, đồng thời dịch chuyển lên phía trên đao trận, tránh khỏi hai lưỡi đao xoáy đầu tiên, sau đó mới từ từ nhích xuống dưới, rồi dùng ba lô ném sang đầu bên kia lối đi, sau khi xác định an toàn, gã mới áp người sát đất trượt qua.
Đường Mẫn đã quan sát từ đầu đến cuối toàn bộ quá trình này, vậy nên lúc cô đi qua thì nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
"Lạ thật!" Đường Mẫn nghi hoặc nói, "Những cơ quan này mặc dù có tổ hợp hoàn chỉnh, nhưng kẻ đến trước chúng ta có thuốc nổ, hoàn toàn có thể phá hủy được chúng, tại sao hắn lại quay trở ra nhỉ?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Những bộ xương ngoài kia rải rác khắp đại sảnh, nhưng không có bộ xương nào chết bên cạnh lối đi, cũng có nghĩa là bọn họ còn chưa tiếp xúc với lối đi này thì đã rút lui rồi. Có lẽ là đã chạm phải cơ quan nào khác, một loại cơ quan không thể giải quyết bằng thuốc nổ, chẳng hạn như khí độc, sương độc gì đó. Xem ra chỗ này đích thực là chưa bị phá hoại, phải báo cho những người khác mới được."
Trác Mộc Cường Ba ấn nút chiếc đồng hồ nguyên tử đeo trên tay, bắt đầu gọi những người khác trong nhóm. Trong vòng ba phút, đại khái đã nói rõ vị trí của mình, để những thành viên chưa có phát hiện gì đặc biệt nhanh chóng tới đây.
Trác Mộc Cường Ba giơ cổ tay lên nói: "Vậy nhé, chúng tôi đã qua trước rồi. Mọi người nhớ cẩn thận, lối đi hẹp này là một tổ hợp cơ quan, mặc dù cơ quan tổng đã bị phá hoại, song các cơ quan phân tổ thì vẫn vận hành. Phiến đá đầu tiên là đinh độc bắn vào chính diện, phiến đá thứ hai khởi động đao trận, phiến đá thứ ba và thứ tư là cửa lật, bên dưới sắp đặt cọc nhọn, từ phiến thứ năm đến phiến thứ mười lăm là đao xoáy, mọi người phải cẩn thận."
Giáo sư Phương Tân nhắn qua máy liên lạc: "Chúng tôi biết rồi, đến ngay đây, hai người cũng nhớ cẩn thận đấy."
Đi qua lối hẹp ấy, cảnh tượng trước mắt liền mở rộng sáng bừng. Tận cùng của lối đi tựa như một bàn đạp nhô ra khỏi vách đá dựng đứng, đưa hai người bọn Trác Mộc Cường Ba vào vị trí trung tâm của một gian đại sảnh màu vàng. Đứng trên bàn đạp lơ lửng giữa không trung, cách trên, dưới, trái, phải mỗi phía chừng hai chục mét, bốn vách là những bó đuốc như những chẻ cây, chiếu sáng rực rỡ cả gian đại sảnh. Trác Mộc Cường Ba nhận ra những bó đuốc phun lửa lớn bằng ngón tay cái, dài khoảng ba mươi centimet, chính là những ống ankyl lỏng. Mỗi ống như vậy, cho dù ở môi trường không có dưỡng khí cũng vẫn cháy được một trăm giờ đồng hồ, hơn nữa còn vừa nhỏ vừa nhẹ, một người mang theo một trăm ống cũng không vấn đề gì. Loại ống ankyl lỏng này các nhà thám hiểm hiện đại chuyên dùng để chiếu sáng và đánh dấu đường, xem ra chắc là nhóm người của Ben để lại.
Đối diện với bọn họ, là một pho tượng ngồi của Nộ Mục Kim Cương, có sáu cánh tay, treo lơ lửng giữa không trung bằng tám sợi dây sắt to cỡ cánh tay người thả từ trần nhà xuống. Pho tượng này cao khoảng ba mét, toàn thân đen thui, dường như là đúc bằng thép ròng, sáu cánh tay đều cầm pháp khí, mắt trợn lên giận dữ, răng nhe ra ngoài, tướng mạo hung tợn, thoạt nhìn trông như Kim Cương của Phật giáo, nhưng lại có chút không giống với những pho Kim Cương mà Trác Mộc Cường Ba thường ngày vẫn thấy. Nét mặt như cười mà chẳng phải cười ấy, kết hợp với ánh mắt phẫn nộ kia, toát lên mấy phần kỳ dị, mấy phần tà ác, Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể tạm gọi đó là tượng Kim Cương chứ cũng không dám chắc. Chỗ rốn của Kim Cương có lỗ thủng, trên đỉnh đầu có mối buộc, xem ra đinh độc bắn ra lúc giẫm lên phiến đá đầu tiên là bắn ra từ cái lỗ này. Lối thông này dính sát vào tượng Kim Cương, xem ra cổ nhân đã đặc biệt thiết kế như vậy để tiện cho việc lau chùi tượng Phật và lắp ráp các cơ quan.
Đường Mẫn nhìn độ cao hai chục mét, băn khoăn hỏi: "Cao như vậy, chúng ta xuống bằng cách nào bây giờ?"
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh, đích xác là không có đường nào đi xuống, nhưng các ống ankyl lỏng cắm trên bốn vách tường đã chứng tỏ đám người của Ben đã xuống bên dưới rồi. Gã cẩn thận quan sát một lần nữa, phát hiện ra trên đùi tượng Kim Cương còn một mẩu thừng nhỏ, bèn nói: "Bọn chúng buộc dây thừng vào đùi Kim Cương leo xuống, nào, lấy dây thừng an toàn ra đây, chúng ta cùng xuống từ chỗ này thôi."
Trác Mộc Cường Ba buộc chắc dây thừng, rồi bảo Đường Mẫn: "Anh xuống trước, tới nơi sẽ gọi em, không được làm bừa đâu đấy." Đường Mẫn khẽ gật đầu.
Trác Mộc Cường Ba quấn một vòng dây vào cổ tay trái, rồi lại quấn một vòng vào hông, tay phải kéo đầu kia sợi dây, tung mình nhảy lên, tính thuận theo sợi dây mà trượt xuống. Nào ngờ vừa mới nhảy lên, gã đã nghe thấy tiếng hô kinh hãi của Đường Mẫn. Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy thân thể rơi xuống, căn bản không hề có cảm giác bị lực tác động nào, kế đó nghe thấy tiếng "rầm rầm rầm" vang lên. Cũng may Trác Mộc Cường Ba lâm nguy bất loạn, không hề do dự, đã dứt khoát cởi ngay sợi dây thừng ra, hai tay dang rộng, mở chiếc áo cánh dơi ra, sau khi giữ được thăng bằng liền vung tay, bắn dây thép, "kích" một tiếng, đầu dây đã xuyên vào vách đá, Trác Mộc Cường Ba cũng lập tức đu người qua. Vừa mới áp sát bức tường, đã nghe thấy "uỳnh" một tiếng, ngoảnh đầu nhìn lại, cả pho tượng Kim Cương đã như một quả chùy sắt khổng lồ dận mạnh vào vị trí vỗ gã định leo xuống. Kế đó, một tràng những tiếng "cạch cạch cạch" vang lên, cơ quan vận hành lại kéo pho tượng nặng mấy tấn trở về vị trí ban đầu. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà toát hết mồ hôi lạnh. Không ngờ đó cũng là cơ quan, sợi thừng đứt còn sót lại ấy hóa ra là vật để dụ người ta mắc bẫy. Đường Mẫn ở bên trên lớn tiếng gọi vọng xuống: "Không sao chứ? Anh Cường Ba?"
Trác Mộc Cường Ba đưa tay rờ mó, bốn vách tường đều trơn tuột, muốn bò từ đây xuống là không thể. Gã liền hét lên trả lời: "Không sao, giờ em nèm cho anh một sợi thừng khác, rồi em xuống theo hướng kia, Mẫn Mẫn, em có nghe thấy không?" Kế đó, gã lại khởi động máy liên lạc trên đồng hồ, nói cho giáo sư Phương Tân và mấy người khác chuyện pho tượng Phật bằng sắt. Cả mấy người kia đều dặn dò Trác Mộc Cường Ba phải hết sức cẩn thận.
Đường Mẫn buộc một đầu dây thừng vào một vật thể tương đối nặng có hình dạng như cây đèn pin rồi nèm cho Trác Mộc Cường Ba vươn tay bắt lấy, sau đó quấn sợi dây quanh người hai vòng, vẫy tay nói: "Được rồi." Đường Mẫn liền tung mình nhảy từ phía bên kia chỗ con đường nhô ra, trượt xuống bên dưới, sau đó lại kéo căng sợi dây. Trác Mộc Cường Ba khi ấy mới thu sợi thép lại, đu người xuống mặt đất. Hai người nhìn cái hố khổng lồ trước mũi chân, và những đốm đỏ lấm chấm bên trong, không hiểu pho tượng Phật sắt rốt cuộc đã giết chết bao nhiêu kẻ lỡ bước đến chốn này rồi nữa.
Trác Mộc Cường Ba thu dây thừng lại, trong lòng vẫn còn chưa hết kinh hãi: "Đi thôi, xem xem dưới đây còn có đường nào nữa không?"
Đứng bên dưới nhìn lên đỉnh, cả gian đại sảnh màu vàng kim này trông huếch trống hoác, bốn vách tường cũng không có những bức tranh cầu kỳ đẹp đẽ, chỉ có pho tượng Phật sắt hung ác kia treo lơ lửng giữa không trung. Từ góc này nhìn lên, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn mới phát hiện, thì ra tượng Phật sắt này có ba đầu sáu tay, bất kể là nhìn từ hướng nào, trông cũng như thể hung thần ác sát đang nhìn chòng chọc vào người ta, hình dáng sáu cánh tay thì mười phần quái dị, cho dù chuyển sang hướng nào chăng nữa, người xem cũng có cảm giác như sáu cánh tay cầm vũ khí kia đang hướng vào phía mình vậy.
Đường Mẫn không nén nổi buột miệng hỏi: "Đây là Phật gì vậy? Nhìn đáng sợ quá đi mất."
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Anh cũng không biết, pho tượng này không hề giống tượng phật nào mà anh từng thấy trước đây cả."
Gian đại sảnh này có bốn cửa lớn ở bốn phía trước sau trái phải. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba lấy la bàn ra kiểm tra, thấy ở bốn hướng Đông Tây Nam Bắc lại có bốn cửa ngách tương đối nhỏ. Giữa đại sảnh có một miệng hố hình tròn, đường kính khoảng ba mét, bên trên bịt kín bằng những phiến đá hình dạng như cánh hoa, nhìn khác hẳn với những phiến đá lát sàn khác ở xung quanh, ở chính giữa đều có một thứ vật chất màu đỏ, chạm vào thấy mềm mềm. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người ra, cửa hầm này giống hệt như cánh cửa đá ở địa cung Ah Puch - cánh cửa phải dùng đến huyết trì mới mở ra được! Nhưng vật chất màu đỏ này không phải dạng sợi như lạt ma Á La đã hình dung, mà giống hệ như tổ chức mô cơ vẫn còn đang sống. Trác Mộc Cường Ba dịch chuyển dần ánh mắt khỏi cửa hầm, chỉ thấy bốn đường rãnh thông thẳng đến bốn cửa ngách, khéo léo đan xem nào những khe hở giữa các phiến đá lát sàn, khiến người ta khó mà phát hiện ra được. Trác Mộc Cường Ba gõ gõ tay lên phiến đá, tiếng động trầm đục, xem ra là rất dày và nặng, nhất thời không thể tìm được cách mở cửa hầm. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn liền đi vòng vòng xung quanh một lượt.
Đường Mẫn nói: "Gian đại sảnh này thật kỳ lạ, tại sao không hướng đúng theo bốn phía Đông Tây Nam Bắc mà lại kẹt giữa bốn phương vị này làm gì chứ."
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực nhớ ra cha gã từng nói rằng Tứ Phương miếu "không phải ở bốn phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc mà ở chỗ ngoặt nét của chữ Vạn luân hồi". Gã lại nghĩ đến thân phận Thánh sứ của mình, không khỏi ngấm ngầm hoài nghi: "Có lẽ nào, nơi này thật sự có liên quan rất lớn tới mình và gia tộc của mình hay sao? Nhưng xưa nay có nghe cha mình nhắc tới bao giờ đâu, đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba âm thầm quyết định, sau khi hành động này kết thúc, nhất định phải trở về tìm gặp cha gã hỏi cho rõ ngọn ngành.
Nghĩ vậy, gã không trả lời ngay câu hỏi của Đường Mẫn, mà dẫn cô tới trước cánh cửa ngách ở hướng chính Bắc, chỉ thấy một dải bậc thang đá lớn trải dài xuống dưới, ánh sáng vàng vọt của các ống lửa cắm bên vách tường tựa hồ như đang chiêu dẫn vong hồn trở về chốn hoàng tuyền. Trác Mộc Cường Ba nói: "Xuống dưới xem sao đi."
Cuối cầu thang là một gian phòng nhỏ, rộng chừng năm sáu chục mét vuông, chính giữa là một bệ đá hình vuông, bốn phía có các giá cũng bằng đá. Trên nền đá và giá treo bằng đá đều không tránh nổi lưu lại những vết nâu sậm, khiến hai người vừa bước vào phòng đã cảm thấy một trận gió âm thổi tới, tựa hồ có vô số oan hồn chưa tan vẫn đang đảo lượn giữa không trung. Xung quanh bệ đá còn sắp đặt vài món đồ bày biện đã mục nát, có lẽ là các thứ pháp khí, bàn thờ, lò lửa ngày xưa vẫn dùng để tế bái cầu khẩn, có điều tất cả giờ đã không còn hình dạng ban đầu nữa rồi. Hai người đi xung quanh một vòng, không có phát hiện gì đặc biệt, nghĩ rằng mấy gian phòng sau những cánh cửa mé còn lại cũng đều như vậy cả, Trác Mộc Cường Ba quyết định vào thử cửa chính xem thế nào.
Cửa chính cao lớn hơn cửa mé bên rất nhiều, bậc thang rộng rãi, hai người bước xuống cầu thang, liền tới một gian đại sảnh khác. Chính giữa sảnh là bệ tam cấp dùng để cúng tế, bên trên là một tượng Phật đá tạo hình nữ giới, cao năm mét, chân trái quấn quanh chân phải, sau lưng dựa vào một cái bệ trông như vỏ sò. Phật có ba mắt, khóe miệng cười gằn, từ ngực tới bụng có sáu bầu vú, hai tay vòng trước ngực ôm một đứa trẻ sơ sinh, đầu đã đứt lìa, chỉ còn lại một cánh tay. Tượng Phật đang há rộng cái miệng to như chậu máu, răng nhuộm đỏ rực, phảng phất như máu vẫn cô đặc trên đó, từng giọt từng giọt nhểu xuống. Tà dị hơn nữa là, trong miệng tượng Phật có một cánh tay trẻ sơ sinh trắng muốt như tuyết thò ra, tựa hồ như vẫn còn muốn nắm lấy thứ gì đó. Đường Mẫn chỉ nhìn lướt qua đã vội ngoảnh mặt sang hướng khác, không dám nhìn tiếp. Đây cũng là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba thấy thứ gì tà ác như vậy. Phía trước tượng Phật có một chiếc đỉnh bằng kim loại, rõ ràng là để đốt hương cúng tế, bốn phía xung quanh còn có các cột gỗ, chắc là dùng để treo phướn rủ màn che, giờ màn phướn đều đã hóa thành tro bụi, chỉ còn lại những chiếc cột gỗ này mà thôi.
Đường Mẫn nói: "Đi thôi, ở đây không còn thứ gì nữa rồi, em nhìn thấy khó chịu lắm."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đợi chút đã Mẫn Mẫn, em xem kìa, vết chân dưới đất tán loạn, còn nữa, lớp bụi đất ở hai bên tượng Phật rất dày, e là chỗ giữa kia có bí mật gì đó. Để anh lại xem thế nào đã." Trác Mộc Cường Ba lấy hết can đảm, dấn từng bước lại gần tượng Phật nữ, càng lại gần càng cảm thấy lạnh lẽo rùng mình. Cái miệng há rộng như chậu máu kia, tựa hồ như sẵn sàng cúi xuống cắn xé người ta, ba con mắt xếp trên trán thành hình cánh quạt, đều toát lên vẻ đói khát, thèm muốn giành giật lấy thức ăn.
Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở, cuối cùng nhích lại dưới chân pho tượng Phật, chỉ thấy bức tượng đá khổng lồ từ trên cao nhòm xuống, ba con mắt trợn trừng không rời, ánh mắt nửa mừng vui lại mang theo nỗi thèm khát ấy được người xưa điêu khắc hết sức có hồn. Trác Mộc Cường Ba càng nhìn lại càng thấy kinh hãi trong lòng. Gương mặt cười cười nhe hàm răng nhỏ máu ấy, thật khiến người ta phải rởn hết cả gai ốc. Trác Mộc Cường Ba thu ánh mắt lại, nhìn thẳng về phía trước, liền phát hiện ra, chân phải cong xuống của tượng Phật có khắc một thứ như giáp bảo vệ đầu gối, vừa hay hình thành nên một cái bậc, bề mặt bằng phẳng, có lẽ để cho người ta leo lên. Gã nghĩ ngợi trong thoáng chốc, rồi cận thận leo lên chỗ khớp gối tượng Phật. Đường Mẫn ở bên dưới run giọng nói: "Anh Cường Ba, anh làm gì thế?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đừng lo, anh lên trên xem sao thôi." Từ hướng này nhìn ra, chỉ thấy đứa trẻ đứt đầu kia, dường như là một bức tượng rỗng, bên trong hẳn là phải có thứ gì đó. Trác Mộc Cường Ba men theo đùi tượng Phật một bước, vừa hay lại giẫm lên điểm đặt chân tiếp theo, tự nhủ thầm trong bụng: "Trong lòng không có ma quỷ thì sẽ không sợ gì hết," kế đó liền táo gan thọc tay vào trong cổ bức tượng trẻ sơ sinh lần mò.
Trong bụng bức tượng dường như có một tay nắm. Trác Mộc Cường Ba quan sát kỹ lưỡng xung quanh, sau khi xác thực đây không phải là cơ quan phát động công kích, mới kéo tay nắm đó một cái. Chỉ nghe "rầm" một tiếng, Trác Mộc Cường Ba vội tung người nhảy xuống khỏi tượng Phật, lộn nhào trên không một vòng, rồi bình ổn hạ xuống. Giờ mới nhìn rõ tượng Phật đã tách ra làm đôi, trong bụng là một cái đài sen có rắn quấn quanh. Đường Mẫn giơ hai tay lên bụm miệng, suýt chút nữa thì kêu rú lên.
Trác Mộc Cường Ba lại bước lên bệ thờ, quan sát đài sen: "Quả nhiên!" Chỉ thấy chính giữa đài sen lộ ra một lỗ nhỏ, bên trong chắc là từng có thứ gì đó cắm vào, nhìn dấu vết trên lỗ nhỏ ấy, thứ đó chắc là có một mẩu hình thoi nhô lên, ngoài ra còn có tay nắm, Trác Mộc Cường Ba nhét sợi dây thừng vào lỗ dò thử, thấy bên trong dài chừng ba mươi centimet. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra xong xuôi, bước xuống bậc thang, đúng lúc bước xuống bậc thang cuối cùng, tượng Phật liền như cái bẫy chuột, chập đánh "rầm" một cái vào nhau, tiếng vang rất lớn, bụi đá rơi xuống lả tả như mưa. Đường Mẫn lại run bắn mình lên một chặp, mặt hoa thất sắc. Trác Mộc Cường Ba bước tới ôm lấy cô, cảm nhận được đôi vai cô đang rung lên nhè nhẹ như một chú thỏ nhỏ đang run sợ, liền thì thầm an ủi: "Đi thôi, chúng ta tới những gian sảnh khác xem sao."
Bên trái là một quái thú ba mắt, trên vai mọc sáu cánh tay, bụng to như trống, đầu người mình rắn, có điều con mắt thứ ba của nó lại tròn vành vạnh chứu không phải hình thoi dựng lên như tượng Phật nữ. Bên phải là một đôi đầu voi mình người đang hợp thể giao hoan, có đực có cái, nhưng ở đây, tượng giống cái đang ngồi to hơn rõ rệt, tượng giống đực ngược lại tương đối nhỏ, tựa như một đứa trẻ bổ vào lòng bức tượng giống cái, không thấy mặt mũi thế nào, chỉ lộ ra cặp ngà dài và cái vòi voi. Gian đại sảnh sau cánh cửa lớn cuối cùng là một bức tượng nữ Phật có bốn cánh tay, cũng có ba mắt, tướng mạo hung ác, cơ thể đen đúa, ngực đeo vòng xâu chuỗi đầu lâu, eo hông đeo tay người làm vật trang trí; hai cánh tay bên trái chia ra cầm búa và câu liêm, tay phải thì cầm đồ đựng bằng đầu lâu người và một trái tim đang nhỏ máu ròng ròng. Những bước tượng hung Phật này tạo hình hết sức đặc thù, nét mặt đáng sợ, không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại chẳng nhận ra được pho tượng nào.
Các bức tượng trong bốn gian sảnh đều có cơ quan, Trác Mộc Cường Ba đã lần lượt mở ra, bên trong đều trống không. Đường Mẫn hỏi: "Nếu chưa có ai tới chỗ này, vậy tại sao ngoài tượng Phật ra thì chẳng còn thứ gì nữa vậy?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Làm sao anh biết được chứ? Có lẽ đã bị người nào đó tinh thông cơ quan học lấy đi mất rồi, hoặc là đã có biến cố gì đó, nên toàn bộ đồ đạc đã được chuyển đi, hoặc cũng có thể… ở đây căn bản không có pháp khí hay tế vật gì, để những kẻ tìm kiếm báu vật bỏ qua những gian phòng này hòng bảo vệ bí mật cuối cùng giấu bên trong tượng Phật."
Cùng lúc ấy, Trương Lập và Nhạc Dương đã tới căn phòng chất đầy vại sành vại sứ. Trương Lập nhìn lối đi nhỏ hẹp nói: "Ở đây rồi."
Nhạc Dương mắt tinh, vừa liếc cái đã thấy cục bầy nhầy giống thịt nằm dưới đất, nói: "Xem kìa, cái gì thế?"
Trương Lập lắc đầu: "Không biết nữa."
Nhạc Dương chặc lưỡi: "Đây có lẽ nào là thái tuế trong truyền thuyết không nhỉ?"
Trương Lập liền hỏi: "Thái tuế là cái gì?"
Nhạc Dương đáp: "Một thứ nghe đồn là ăn vào sẽ kéo dài tuổi thọ, cường thân kiện thể. Thoạt nhìn giống thịt, nhưng thực ra là một loại nấm, ngoài ra, khi cắt một phần đi, nó sẽ tự mọc lại được, chỉ cần ngâm trong nước là sẽ giữ được không bị thối rữa. Hồi ở Thanh Hải tôi có nghe người ta kể về thứ này rồi." Nói đoạn, anh chàng liền nhấc cái vại Trác Mộc Cường Ba đã mở ra lên, lắc lắc mấy cái rồi bảo Trương Lập, "Anh xem đi, trong này cũng ngâm đây này."
Trương Lập ghé mắt vào nhìn kỹ hơn, "Không phải đấy chứ, chỉ là một cục thịt trắng to bằng con chó con mới đẻ thôi mà, trong vại cũng đang ngâm một cục như thế." Nhạc Dương nói: "Chẳng lẽ ở đây lại có nhiều thái tuế thế cơ à?"
Trương Lập trầm trồ: "Chà, ăn vào có thể trường sinh bất lão, vậy thì chúng ta phát to rồi!"
Nhạc Dương thò tay vào trong vại vớt cục thịt trăng trắng ấy lên, gí sát miệng Trương Lập nói: "Anh nếm thử xem mùi vị thế nào?"
Trương Lập vội vàng lắc đầu quầy quậy, cái thứ này nghe thì có vẻ rất hay, nhưng khi đặt ở trước mặt, chỉ nhìn thôi cũng thấy buồn nôn lắm rồi, hơn nữa lại còn có một thứ mùi hết sức quái đản, ngửi còn chẳng muốn ngửi nói gì đến ăn. Nhạc Dương cười hì hì chế giễu: "Đúng là chẳng biết gì hết, đồ tốt thế mà lại." Nhưng lúc anh chàng đưa lên miệng, bị khí vị quái dị ấy xộc vào mũi thì cũng không sao há miệng ra nổi. Trương Lập lo lắng hỏi: "Được không đấy, cái thứ này có lẽ đã ngâm cả ngàn năm rồi đó, cho dù có là đồ tốt thật thì cũng bị ngâm rữa ra rồi, chúng ta mau mau qua kiếm Cường Ba thiếu gia thì hơn."
Trác Mộc Cường Ba vừa bước xuống khỏi bệ thờ, bức tượng Phật bốn tay liền khôi phục lại hình dáng ban đầu, chỉ nghe bên ngoài đại sảnh có tiếng "cạch cạch" khe khẽ. Trác Mộc Cường Ba chợt nghĩ: "Chẳng lẽ cánh cửa trong dưới đất đã mở ra rồi? Đi, đi xem sao." Nghĩ đoạn, gã liền dắt tay Đường Mẫn nhanh nhanh chạy vù về gian đại sảnh sắc vàng. Đường Mẫn lẩm bẩm nói: "Không phải là huyết trì à, sao lại dễ mở ra như thế nhỉ?"
Quả nhiên, các phiến đá giống như cánh hoa trong đại sảnh đã xoay cả về phía gần tường đá, để lộ ra một cửa hầm trơn nhẵn hình tròn, đường hầm hình xoáy tròn xuống dưới, bên trong trơn như gương, rất giống một cái vỏ ốc biển khổng lồ. Đường Mẫn lo lắng nói: "Bên trong này trơn như thế, xuống rồi là không lên được đâu." Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi lấy dụng cụ ra, đóng đinh sắt vào mặt đá, rồi lại dùng ba cái chốt an toàn chặn mấy cánh hoa lại, thắt dây an toàn vào đinh sắt, cài móc thả xuống đường hầm. Xong xuôi đâu đó, gã nói với Đường Mẫn: "Để anh xuống trước, em ở trên này đừng để cửa đóng lại đấy."
Trác Mộc Cường Ba đội mũ phát sáng lên, một tay bám dây thừng, ngồi trong rãnh trượt xuống, giống hệt như trẻ con ngồi cầu trượt vậy, vừa trượt gã vừa không khỏi nghĩ thầm trong bụng: "Sao trơn vậy, rốt cuộc là đã dùng công nghệ gì nhỉ?" Gã rờ tay lên vách, thấy lạnh buốt xương, gõ gõ lên, thì thấy không phải tiếng trầm đục của đá, Trác Mộc Cường Ba liền điều chỉnh cho mũ sáng hẳn lên, liền thấy vách tường đen sì sì như làm từ thép ròng, thầm nhủ: "Chẳng lẽ tường bên trong lối đi này toàn bộ đều ghép từ vật liệu kim loại chắc? Bọn họ dùng cách gì mà giữ được kim loại cả ngàn năm cũng không gỉ sét nhỉ?"
Đang suy nghĩ, dưới chân gã hình như đạp rơi thứ gì đó, thân thể hơi chùng lại, đoạn liền nghe thấy tiếng "cục cục cục" bên dưới vọng lên. Trác Mộc Cường Ba không kịp nhìn cho kỹ, nhưng đã càng thêm cẩn trọng, bám chặt dây thừng chầm chậm trượt xuống, quả nhiên không ngoài suy đoán của gã, cách đó chưa đầy ba mét, ở phía trước bỗng nhiên nhô ra một lưỡi đao sắc, mũi đao hướng thẳng về phía Trác Mộc Cường Ba, nếu gã mà không bám vào dây an toàn, nói không chừng lưỡi đao ấy đã xẻ người gã ra làm hai mảnh rồi. Trác Mộc Cường Ba còn chưa kịp thở phào nhẹ nhõm, đã nghe "soạt soạt soạt" mấy tiếng nữa vang lên, trong đường hầm trơn tuột ấy lại xẹt ra mấy lưỡi đao nữa. Những lưỡi đao này rõ là vô cùng sắc bén, sợi thừng chắc đến mức có thể treo cả con voi lên, bị lưỡi đao cọ vào hai ba lượt đã không chịu nổi trọng lượng của Trác Mộc Cường Ba, "bưng" một tiếng rồi đứt lìa. Trác Mộc Cường Ba chỉ kịp hét vọng lên phía cửa đường hầm một tiếng: "Không được xuống đây," thân thể đã trượt vù xuống dưới.
Đường hầm
Trương Lập và Nhạc Dương ung dung đi qua lối đi hẹp. Nhạc Dương không khỏi dương dương đắc ý nói: "Vượt qua mấy cái cơ quan này dễ quá đi."
Trương Lập liền châm chọc: "Không có Cường Ba thiếu gia nhắc nhở, cậu qua được dễ dàng thế không hả? Phải rồi, bây giờ đi tiếp sao đây? Mấy người đám Cường Ba thiếu gia đâu rồi nhỉ?"
Đi thêm mấy bước nữa, Nhạc Dương nhìn pho tượng Phật sáu tay, kinh ngạc thốt lên: "Oa, đây là Phật gì thế, nhìn cứ như hung thần ác sát ấy."
Trương Lập nói: "Dạ xoa phải không? Hay chẳng lẽ là tượng Diêm vương?"
Hai anh chàng đi tới phía trước tượng Phật sắt, liền nhìn thấy gian đại sảnh màu vàng và Đường Mẫn ở bên dưới.
Trương Lập vẫy chào, rồi cùng Nhạc Dương mỗi người giữ một đầu dây, gá lên phần nhô ra của lối đi, cùng lúc trượt xuống. Hai người chạy tới bên cạnh Đường Mẫn, trông thấy cửa hầm hình tròn dưới đất, Trương Lập bèn hỏi: "Sao cô không xuống đó luôn?"
Đường Mẫn đáp: "Anh Cường Ba vừa mới xuống. Anh ấy nói để thăm dò xem có nguy hiểm gì không…" Cô vừa nói tới đây, chợt nghe trong đường hầm vọng tới giọng Trác Mộc Cường Ba: "Không được xuống đây!" kế đó sợi dây thừng buộc vào đinh sắt bên trên giật nảy lên. Cả ba người đang đứng trong đại sảnh đều ý thức được một điều, dây thừng đã đứt!
Đường Mẫn cuống hết cả lên, thò đầu quan sát rồi định trượt xuống đường hầm, nhưng đã bị Trương Lập kéo lại. Nhạc Dương nói: "Mấy công chuyện nặng nhọc này để đàn ông chúng tôi làm cho." Nói xong liền cầm sợi thừng lên thắt bốn cái nút liền nhau, rồi bám dây xuống luôn đường hầm. Trương Lập cũng nói: "Yên tâm, công chúa, chúng tôi nhất định trả lại cho cô một Cường Ba thiếu gia hoàn chỉnh nguyên vẹn." Dứt lời cũng trượt xuống theo luôn.
Trác Mộc Cường Ba gào lên cảnh báo, đồng thời hay tay vươn ra, ấn vào hai núm xoay ở cạnh đế giày. Đôi giày leo núi đặc chế liền tự động bơm khí xuống đế, hình thành nên những giác hút và các sợi lông cong lớn nhỏ khác nhau, Trác Mộc Cường Ba lợi dụng chút lực hút này mà áp chặt người vào vách đường hầm trơn tuột, từ từ giảm tốc độ, cuối cùng cũng coi như dừng lại được. Một thanh đao sắc lẻm kê ngay dưới nách gã, lưỡi đao gần như đã cắt rách lớp áo bên ngoài. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận vòng tay qua tránh lưỡi đao, rồi dùng sức phần hông, từ từ trườn xuống dưới, trông hệt như một con sâu đang uốn éo bò đi.
Lại vòng thêm ba vòng nữa, phía trước hình như đã xuất hiện mặt đất bằng phẳng, nhưng ở ngay chính diện lại xuất hiện một thanh đao dựng đứng. Từ góc độ của Trác Mộc Cường Ba, thoạt nhìn nó như một sợi tơ bạc, phía sau sợi tơ đột nhiên phình to ra như quản bút. Gã thầm nhủ, xung quanh chắc chắn phải có chốt lẫy nào để đóng cái cơ quan bật lưỡi đao này mới phải, vừa nãy trượt từ trên xuống dưới, những lưỡi đao này đều dựng đứng ở ngay phía dưới lối thông, nếu thả cho trượt tự do xuống thì người sẽ áp sát vào một bên vách do quan tính, thành ra lại không hề nguy hiểm, chỉ có điều khi trượt tới đoạn dốc cuối cùng này, chắc chắn sẽ bị lưỡi đao sắc phía trước xẻ ra làm đôi.
Khi sắp lại gần lưỡi đao, Trác Mộc Cường Ba liền phát hiện ra ở mé bên đường hầm hình tròn này có một kết cấu mộng ghép nhô ra, lẽ nào đây chính là chốt để đóng mở cơ quan?
Đang suy nghĩ, đột nhiên nghe "kịch" một tiếng, lưỡi đao kia bỗng rụt trở lại, kế đó nghe "phăng" một tiếng nữa, lưỡi đao lại bật trở ra. Trác Mộc Cường Ba còn chưa hiểu ra chuyện gì, đã nghe bên trên có người hét lớn: "Cường Ba thiếu gia, anh ở đâu? Tôi xuống đây!" Tiếng Nhạc Dương từ xa thành gần, đến thật là nhanh!
Trác Mộc Cường Ba thầm than không xong, hai chân ấn chặt vào đường hầm. Chỉ thấy hai vai trầm xuống, cả hai người cùng lúc bị một xung lực mạnh mẽ kéo trượt xuống. Lưỡi đao kia cách tầm mắt Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng gần, càng lúc càng gần. Trác Mộc Cường Ba định thay đổi phương hướng, nhưng muốn trụ vững được thân hình ở chỗ này một mình đã không phải chuyện dễ rồi, làm sao gã được như ý. Thành ra hai người cùng lúc cứ thế trượt thẳng về phía lưỡi đao sắc bén.
Cuối cùng coi như nhờ đôi giày leo núi đặc chế chất lượng cao, không ngờ cũng giữ ổn được thân hình của cả hai người. Song lưỡi đao kia đã kề vào giữa hai đùi Trác Mộc Cường Ba, cọ xát vào đũng quần. Gã lần này đúng là được một phen toát mồ hôi lạnh, không ngờ còn chưa kịp định thần, bên trên đã có tiếng vọng xuống: "Tôi cũng đến rồi đấy!"
Trác Mộc Cường Ba cả kinh thất sắc. May là trong lúc loạn cũng không mất đi sự bình tĩnh, vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đó gã đã vươn tay phải ra ấn xuống kết cấu hình mộng kia, còn kế đó thế nào thì đành nghe theo mệnh trời thôi vậy. Trác Mộc Cường Ba vừa mới làm xong, trọng lượng trên vai đột nhiên tăng lên gấp mấy lần, ba người như một đoàn xe lửa, trượt ngồi xuống tận cùng của đường hầm.
"Khốn kiếp! Rõ ràng đã nghe thấy tôi bảo đừng có xuống, thế tức là chắc chắn có cơ quan rồi, vậy mà vẫn còn mạo hiểm như vậy nữa!" Trác Mộc Cường Ba có tốt tính đến mấy cũng không thể nhịn nổi, lớn tiếng trách móc các thành viên trong nhóm.
Nhạc Dương trừng mắt lên nhìn Trương Lập, giọng đầy trách móc: "Đều tại cậu cả, suýt chút nữa là làm Cường Ba thiếu gia tuyệt đường con cháu rồi." Hai người áp vào vách tường trượt xuống, thành ra không chạm phải lưỡi đao nào hết.
Trương Lập vội biện bạch: "Sao lại trách tôi, rõ ràng là cậu xuống trước cơ mà, cậu không đạp phải cái cơ quan ấy, những lưỡi đao đó liệu có bật ra làm đứt dây thừng hay không chứ?"
Trác Mộc Cường Ba ôm đầy một bụng tức, có điều cũng không muốn lằng nhằn mãi với hai anh chàng lắm điều này, liền lấy thiết bị ra liên lạc với Đường Mẫn, báo cho cô biết tạm thời họ chưa gặp nguy hiểm gì, nhưng trong thông đạo có cơ quan, tốt nhất là đừng có xuống vội, cứ ở trên đó đợi mấy người nhóm lạt ma Á La tới đã. Kế đó, gã lại liên lạc với giáo sư Phương Tân, từ vị trí của giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La, rõ ràng là đã sắp tới gian đại sảnh màu vàng kim kia rồi. Chỉ có Lữ Cánh Nam và Ba Tang là đã phát hiện ra một lối đi lạ, giờ đang thăm dò. Hơn nữa lối đi mà họ phát hiện ra đó, hình như cả nhóm người của Ben cũng chưa phát hiện ra, bên trong vẫn còn giữ được nguyên vẹn trạng thái mấy trăm năm không hề có người lai vãng.
Thông đạo bí mật mà Lữ Cánh Nam và Ba Tang đi nghe nói còn nguy hiểm kỳ bí gấp bội, nói chuyện qua thiết bị liên lạc nhất thời cũng khó có thể nói rõ ràng được, Lữ Cánh Nam chỉ dặn dò bọn Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng điều tra rõ lối đi bọn gã phát hiện, sau đó xem xem có thể liên hệ và giúp đỡ gì nhau không.
Trác Mộc Cường Ba ấn nút trên đồng hồ, chấm dứt cuộc tranh luận từ nãy vẫn chưa hề ngừng lại của Trương Lập và Nhạc Dương, đoạn nói: "Tôi còn chưa nói cái gì, hai cậu tranh cãi gì mà tranh cãi? Bây giờ chúng ta hãy kiểm tra rõ tình hình dưới này trước, rồi sau đó tìm cách leo lên trên kia."
Nhạc Dương le le đầu lưỡi, không dám nói gì thêm. Lạt ma Á La nói: "Vậy tức là có rồi."
Trác Mộc Cường Ba đành thừa nhận: "Phải, có một cái, đó là truyền thống của gia tộc chúng tôi, từ nhỏ đã đeo rồi, là con gái thì được truyền cho một viên Thiên châu, còn là con trai thì được một thanh kiếm đồng nhỏ." Nói tới đây, gã như đột nhiên nhớ ra điều gì đó, im lặng không thốt thêm tiếng nào nữa, thần sắc đượm vẻ bi thương.
Ba người giáo sư Phương Tân, Nhạc Dương, Trương Lập giờ mới hiểu ra mọi chuyện.
Lạt ma Á La nói: "Tôi có thể xem được không?"
Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn Trương Lập. Gã biết thứ mà Nhạc Dương đã trông thấy thì anh chàng này cũng không thể thiếu phần. Trương Lập vội lấy Thiên châu ra, đồng thời cười gượng gạo giải thích: "Chúng tôi muốn giặt sạch quần áo cho anh nên mới sắp xếp lại những thứ quan trọng trong đó, tuyệt đối không có ý xem trộm đâu."
"A! Đây là…" Tiếng kêu kinh ngạc ấy đồng thời phát ra từ miệng lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân, kế đó Đa Cát đếm lên thành tiếng: "Mười, mười một, mười hai… mười bảy, mười tám! Thập bát Nhãn thạch, đến cả trưởng lão cũng chưa từng nhìn thấy thánh thạch này bao giờ đâu!"
Trương Lập và Nhạc Dương lại đồng thời ngẫm nghĩ: "Nói không chừng đây chính là nguyên nhân các vị trưởng lão xác nhận Cường Ba thiếu gia là Thánh sứ cũng nên. Nghe nói Thiên châu này ở Tây Tạng chỗ nào cũng có bán, tên Ben kia có khi đã mua một viên nên mới giả mạo làm Thánh sứ được một lần."
Sau tiếng kêu kinh ngạc, Lạt ma Á La không nói gì, chỉ ngoảnh đầu sang phía khác. Ông không muốn để người khác nhìn thấy những giọt lệ xúc động đang trào lên nơi khóe mắt. Trong lòng vị sư già như có một tiếng nói đang gào thét: "Cường Ba thiếu gia à, cậu có biết đây chính là vật tượng trưng chí cao vô thượng hay không? Thập bát Nhãn Bảo bình Thiên châu, Thập bát chính là Thập bát trùng thiên của đức Ma Hê Thủ La, Bảo bình là vật chứa đựng mọi điều thanh tịnh của đại thiên thế giới, có Bảo bình, ánh sáng chói ngời! Ánh sáng chói ngời đó!"
Lạt ma Á La cố nén cảm giác xúc động, quay đầu lại, bình thản nói: "Cơ quan vừa nãy, chính là do viên Thiên châu này khởi động."
Mọi người liền hỏi rốt cuộc là thế nào, lạt ma Á La giờ mới giải thích: "Theo suy đoán của ta, trên hai cánh cửa gian sảnh mé bên đó, có một thứ cảm ứng được Thiên châu. Nguyên lý cụ thể ra sao thì ta không được rõ lắm, nhưng khi Đa Cát vào lần đầu tiên, thiết bị cảm ứng nhận ra được Thiên châu, cho là hậu nhân đến lấy đồ của mình, thế nên đã khởi động Vạn tự luân để khảo nghiệm, nếu không qua được khảo nghiệm này, thì không đủ tư cách lấy được viên hồng ngọc. Khi Cường Ba thiếu gia lần thứ hai bước vào bước vào gian sảnh đó, thiết bị cảm ứng ở cánh cửa phía trước đã nhận ra rồi, khi chúng ta rời khỏi đó, thiết bị cảm ứng trên cánh cửa thứ hai lại bắt được tín hiệu Thiên châu trên người Đa Cát. Vì vậy cơ quan chúng ta gặp phải lúc rời khỏi đó, thực ra không phải là cơ quan để dồn chúng ta vào chỗ chết, mà chỉ là một hình phạt nho nhỏ, ý là sau khi lấy viên Trích Huyết hồng thạch kia thì không nên quay lại, chớ tham lam quá đáng. Đây chính là điều mà những người xây dựng nên nơi này muốn nói với chúng ta…"
Mọi người thảy đều xôn xao bàn tán, trong đó Trương Lập và Nhạc Dương là to mồm nhất. Trương Lập nói: "Không phải chứ, trừng phạt cũng không cần bắt người ta phải liều mạng thế chứ!" Nhạc Dương cũng lên tiếng: "Cơ quan ấy rõ là muốn lấy mạng người ta còn gì. Cường Ba thiếu gia ra nông nỗi này, còn không phải dồn chúng ta vào chỗ chết rồi ư?"
Lạt ma Á La để họ nói hết, mới điềm đạm kể lại toàn bộ quá trình thử cơ quan vừa nãy, làm ai nấy đều trợn mắt há hốc miệng ra. Không tin ư, Đa Cát ở bên cạnh vừa gật đầu lại vừa khoa chân múa tay, ánh mắt vẫn còn tràn ngập vẻ kinh khiếp. Cuối cùng, lạt ma Á La nói: "Vì vậy, chuyện này cũng coi như là ý trời, nếu chúng ta không có Thiên châu, căn bản là không thể bước vào gian phòng hình tròn, chứ đừng nói gì đến chuyện có ra khỏi đó được hay không?"
Trác Mộc Cường Ba cử động tay chân, hỏi: "Tôi có thể đứng dậy được chưa?" Nói đoạn lại đưa mắt nhìn Đường Mẫn, làm cô đỏ bừng mặt.
Lạt ma Á La nói: "Được rồi, kiếm cho cậu ấy bộ quần áo, còn đống này thì ném xuống nước ngâm giặt, rồi cất cẩn thận, mang trở về đốt đi."
Đa Cát đã xử lý xong vết thương, cung kính đến trước mặt Trác Mộc Cường Ba, cúi đầu nói: "Thật không ngờ, Đa Cát Điệt Bất lại được Thánh sứ đại nhân cứu mạng lần nữa. Kể từ hôm nay, tính mạng này của Đa Cát chính là của Thánh sứ đại nhân, Đa Cát sẽ đi theo Thánh sứ đại nhân đi khắp đại thiên thế giới. Cho dù Đa Cát phải xuống địa ngục A Tỳ, chịu đủ mười tám nỗi khổ đau cũng phải bảo vệ đại nhân được bình an."
Trác Mộc Cường Ba nhìn anh chàng nhỏ con cao chưa đến ngực mình đang nghiêm túc thề sẽ bảo vệ gã đến cùng, không khỏi thương hại đưa tay vuốt lên đầu Đa Cát. Đa Cát tỏ ra hết sức mừng rỡ, được Thánh sứ đặt tay lên đầu ban phúc là vinh dự cực cao đối với người Công Bố bọn họ.
Thân hình Trác Mộc Cường Ba cao lớn vạm vỡ, muốn tìm một bộ quần áo thích hợp không hề dễ dàng, Đa Cát liền cởi chiếc áo Phổ Lỗ trên người cho gã khoác bên trên, rồi lại dùng tấm phướn sửa lại một chút, quấn quanh hông như cái tạp dề. Trương Lập đang chuẩn bị ném đống quần áo cũ của gã xuống nước, đột nhiên có tiếng động lạ vọng tới, tựa hồ như cả khu hoang phế dưới lòng đất này đang rung lên, đồng thời nước trong hồ cũng đột nhiên biến mất, đá vụn rơi xuống lả tả như mưa.
Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: "Xảy ra chuyện gì thế!" Đường Mẫn ôm chặt Trác Mộc Cường Ba nói: "Mau rời khỏi đây thôi!"
Giáo sư Phương Tân nói: "Chỗ này sắp sập rồi à?" Lạt ma Á La cũng kêu lên: "Chuyện gì vậy?" Nhạc Dương kêu lên: "Có phải chỗ giáo quan đã xảy ra chuyện gì không?" Kế đó liền thử liên lạc, nhưng không có hồi âm, mãi lâu sau mới có tín hiệu màu da cam nhấp nháy, nghĩa là bên kia đang bận, không có thời gian liên lạc.
Chỉ có Đa Cát không bị cơn chấn động làm kinh hoảng, đang thò tay xuống hồ kiểm tra, phát hiện nước hồ quả nhiên không còn một giọt, cuối cùng mới hướng về phía Tây quỳ bái. Mọi người hỏi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Đa Cát nói: "Át Ca trì xưa nay chưa từng cạn nước. Cửa mở rồi, cửa mở rồi, Nạp Bạc Thác cạn khô rồi, vì vậy nước trong Át Ca trì mới chảy hết. Cửa đã bị mở ra rồi!"
"Rốt cuộc là thế nào? Nói kỹ hơn nữa đi?" Nhưng Đa Cát đã bắt đầu tụng niệm một bài kinh văn của bộ tộc Công Bố, không nói thêm câu nào nữa. Lạt ma Á La biết rõ quy tắc khi niệm chú, ra hiệu cho mọi người không được quấy rầy. Cơn chấn động này không đến nỗi dữ dội lắm, cả quần thể kiến trúc ngầm dưới lòng đất này dường như không có vẻ gì là muốn sụp đổ. Mọi người liền lặng lẽ chờ đợi bên bờ hồ. Chấn động không ngừng, bên ngoài tiếng ầm ầm vang lên không ngớt, mãi nửa tiếng đồng hồ sau mới từ từ tan biến, đồng thời Đa Cát cũng ngưng tụng niệm. Lúc này, những người khác đã thu dọn xong quần áo khí giới, đeo sẵn ba lô, chỉ chờ Đa Cát xong là cùng rời đi.
Trương Lập lại hỏi thêm lần nữa. Đa Cát nói: "Trong làng chúng tôi có truyền thuyết kể rằng, một khi Cánh cửa Sinh mệnh bị đóng, toàn bộ nước trong hồ Nạp Bạc Thác sẽ khô kiệt. Chỉ cần trong hồ Nạp Bạc Thác còn một giọt nước, thì giọt nước ấy nhất định ở trong Át Ca trì, nhưng giờ trong đó không còn một giọt nước nào, đã chảy hết cả rồi."
Nhạc Dương nói: "Không phải chứ, vừa mới nói là cửa mở rồi, giờ lại bảo cửa đóng rồi, rốt cuộc là cửa đóng hay là cửa mở đây?"
Đa Cát đột nhiên nói: "Theo tôi, mọi người đi theo tôi." Kế đó liền dẫn mọi người chui xuống đường ống thoát nước bên dưới, loanh quanh trong đó một lúc thì đến một ngõ cụt. Trương Lập nói: "Hết đường rồi."
Đa Cát nói: "Ở đó có cánh cửa, trước đây thì bất kể thế nào cũng không đẩy ra được, bây giờ, mọi người hãy đẩy cánh cửa đó ra đi."
Trương Lập đẩy cửa, trong đường ống thoát nước vốn chỉ có ánh sáng lờ mờ từ mũ phát sáng, cánh cửa vừa mở ra, đột nhiên có ánh mặt trời bên ngoài chiếu thẳng vào, nhất thời không ai mở mắt ra được. Đợi khi thị lực khôi phục, Trương Lập mới kêu toáng lên: "A, đúng là khô cạn thật rồi! Nước hồ cạn thật rồi!"
Mọi người đứng dồn lại ở cửa ra, phát hiện hệ thống thoát nước này được thiết kế dưới đáy hồ. Những giọt nước nơi cửa ra rỏ xuống tong tỏng, bên ngoài đáy hồ cạn, vô số cá các loại giãy đành đạch trong đống bùn, vùng vẫy cầu sinh. Trời xanh mây trắng vẫn bình yên che phủ ngọn núi phía xa. Chỉ trong nửa tiếng đồng hồ, một hồ nước lớn như thế không ngờ đã biến thành một đầm bùn cạn, thật biến thái đến mức người ta khó có thể nào chấp nhận được.
Giáo sư Phương Tân nhìn cánh cửa bị đẩy ra nói: "Ồ, cánh cửa này mượn sức nước ép xuống, chỉ có thể đẩy từ bên trong, lúc nước hồ còn đầy, đương nhiên là không thể nào mở được rồi."
Đa Cát sải chân bước ra, giẫm trong lớp bùn đọng dưới đáy hồ, ngập đến đầu gối, khẽ lẩm bẩm hát: "Cánh cửa Sinh mệnh đã khép lại, Cánh cửa Địa ngục sẽ mở ra, Cánh cửa Địa ngục đã mở ra, các sứ giả dũng cảm phải lên đường. Họ băng qua Minh hà, vượt qua hoang mạc, lội qua đầm lầy có vô số trùng độc, trải qua tất cả gian nan khổ nạn, đến được Thánh điện trên trời, tiên cảnh chốn nhân gian… Hương Ba La!" Đa Cát ngoảnh đầu lại, "Đây chính là bài ca dao người làng chúng tôi hay hát, cả đứa trẻ ba tuổi cũng biết, là do các vị trưởng lão dạy cho đấy."
Cánh cửa Địa ngục, Hương Ba La, khi những từ ngữ quen thuộc ấy một lần nữa bên tai mọi người, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba nghe nhắc đến Cánh cửa Địa ngục, song theo những gì gã biết, hình như nó mở ra con đường xuyên dãy Himalaya. Thật không ngờ, ở nơi xa xăm hẻo lánh như Mặc Thoát này lại được nghe truyền thuyết về Cánh cửa Địa ngục. Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Cậu biết Cánh cửa Địa ngục ở đâu không?"
Đa Cát gật đầu: "Đương nhiên." Anh ta chỉ về ngọn núi phía xa, nói: "Cánh cửa Địa ngục ở phía Tây Cánh cửa Sinh mệnh, vốn cũng là một trong ba thánh địa người Công Bố chúng tôi bảo vệ, nhưng vì ở đó thực sự chẳng có gì cả, nên về sau đã bỏ qua."
"Hả?" Trương Lập nghi hoặc nói: "Ngọn núi ấy hả, xem ra cũng không xa lắm phải không? Cánh cửa Địa ngục thật sự ở đó chứ?"
Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: "Không có gì cả? Đây là ý gì?"
Đa Cát đáp: "Mọi người nhìn thì biết ngay, đúng là không có gì cả, chỗ ấy chính là Ứng Kháp Bố Tạng Bố."
Đường Mẫn nói: "Cái tên Ứng gì gì đó này hình như rất quen, trước đây đã nghe nói đến rồi thì phải?"
Lạt ma Á La nói: "Là tên gọi cổ của sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Na Thâm đã từng nhắc đến rồi."
Nhạc Dương chỉ ra phía xa nói: "Nhìn kìa, giáo quan, giáo quan đang ở ngoài kia."
Chỉ thấy Lữ Cánh Nam và Ba Tang đang bước trên đáy hồ cạn, dường như đang tìm kiếm gì đó. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba liền chạy lại chỗ họ.
Khi tới gần, bọn Trác Mộc Cường Ba đều không khỏi thầm kinh hãi. Mặt mũi chân tay Ba Tang chi chít vết thương, từ trán tới mũi hóa thành xanh đen. Cả Lữ Cánh Nam cũng đầu tóc rối bù, hơi có vẻ tiều tụy. Trương Lập chào một tiếng, nói: "Ồ, giáo quan, anh Ba Tang, chúng tôi ở đây, chúng tôi đến đây."
Lữ Cánh Nam nói: "Ừm, mọi người cũng phát hiện ra lối ra ngầm bên dưới ư?"
Nhạc Dương nói: "Làm sao mà ra nông nỗi này vậy anh Ba Tang?"
Ba Tang lạnh lùng nói: "Cửu tử nhất sinh." Đám người Trác Mộc Cường Ba đã quen với tính cách của Ba Tang, biết rằng để anh ta phải thốt ra bốn chữ này, quả là họ đã trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm rồi. Ba Tang lại bổ sung thêm một câu, "Mấy người cũng vậy hả?"
Mọi người nghe hỏi mới sực nhớ ra, bản thân mình cũng chẳng khá hơn được bao nhiêu, đặc biệt là Trác Mộc Cường Ba đang mặc một bộ đồ kỳ quái và lạt ma Á La bị thương khắp mình mẩy. Trương Lập gật đầu nói: "Chậc, cơ quan ở đây lợi hại hơn lúc huấn luyện nhiều, suýt chút nữa là không ra được rồi. À phải, anh Ba Tang, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Có phải hai người đã chạm phải cơ quan không? Hồ nước này sao lại đột nhiên cạn kiệt thế?" Ba Tang gật gật đầu.
Lữ Cánh Nam lạnh lùng nói: "Cơ quan chẳng có gì lợi hại, quan trọng là các cậu có nghĩ đến những điều cổ nhân nghĩ hay không. Tất cả đều là người được huấn luyện chuyên môn, một chút cơ quan này mà còn không đối phó nổi hay sao? Hử? Người này là ai?"
Trác Mộc Cường Ba đáp: "Đây là Đa Cát, Đa Cát của làng Công Bố, anh ta bị bọn tên Ben kia nhốt trong hồ nước ngầm, được chúng tôi cứu ra. Phải rồi, Đa Cát biết rất nhiều chuyện liên quan đến nơi này, còn cả Cánh cửa Địa ngục nữa, phải không Đa Cát?"
Đa Cát ngẩng cao đầu, hỏi ngược lại Trác Mộc Cường Ba: "Thánh sứ đại nhân, người đàn bà này là ai?"
Trác Mộc Cường Ba lại giới thiệu Lữ Cánh Nam với Đa Cát: "Cô ấy là giáo quan của chúng tôi, cũng là người phụ trách hành động lần này." Giải thích một lượt, để Đa Cát biết người phụ trách là gì, song anh ta vẫn không thể nào hiểu nổi. Trong thế giới của anh ta, phụ nữ chỉ phụ trách sinh con và lo liệu việc nhà, làm gì có lý nào cả một đám người lại nghe hiệu lệnh của một người đàn bà? Trác Mộc Cường Ba bất đắc dĩ phải dùng thân phận Thánh sứ đại nhân, hỏi lại câu hỏi Lữ Cánh Nam muốn hỏi một lần, Đa Cát mới miễn cưỡng trả lời, song vẫn không ngớt lẩm bẩm: "Ở chỗ chúng tôi, đàn bà như thế chắc chắn chẳng ai thèm đâu. Đàn ông nói chuyện, đàn bà sao có thể chõ miệng vào chứ, lại còn đòi có ý kiến nữa, đúng là không được!" làm Lữ Cánh Nam tức đến lỗ mũi xịt khói, chỉ muốn mổ bụng moi tim anh ta ra ngay tại chỗ.
Trong khi Lữ Cánh Nam hỏi han Đa Cát, mấy người bọn Trương Lập cũng cật vấn Ba Tang rốt cuộc đã chạm phải cơ quan gì, lợi hại thế nào. Ba Tang nói vắn tắt một lượt, chỉ vậy cũng đủ biết mức độ kinh hồn bạt vía không hề thua kém những gì họ đã trải qua. Nghe xong chuyện của Ba Tang, Nhạc Dương nói: "Vậy thì nước hồ rốt cuộc đã chảy đi đâu rồi nhỉ?"
Ba Tang giẫm chân nói: "Ở bên dưới."
"Vẫn ở bên dưới?" Trương Lập ngạc nhiên thốt lên.
Ba Tang gật gật đầu: "Ừm, giáo quan có nói, hệ thống nước ngầm trên cao nguyên này lúc nào cũng là vấn đề các nhà khoa học muốn nghiên cứu cho tận tường. Kết cấu địa chất vùng này cực kỳ phức tạp, ước chừng có rất nhiều hang đá vôi và sông ngầm. Dải cao nguyên Thanh Tạng này có rất nhiều truyền thuyết nói rằng biển một đêm đã khô cạn, mà lại được chứng thực khá nhiều lần nữa. Tất cả đều do các dòng sông ngầm đột nhiên liên thông, rồi nước hồ theo đó mà chảy đi. Tôi và giáo quan vừa nãy chính là đang tìm xem có lối thông nào bị mở ra hay không."
Đường Mẫn nói: "Có thấy gì không ạ?"
Ba Tang lắc đầu nói: "Cái hồ này vốn không lớn lắm, chắc chỉ khoảng mười kilomet vuông, chúng tôi đi hết một vòng cũng không có phát hiện gì. Giáo quan nói, có thể sau khi nước hồ rút cạn, đất bùn dưới đáy hồ đã lại bịt miệng lối thông ấy lại rồi, nên chúng tôi mới không tìm được."
Giáo sư Phương Tân dùng ống kính quay một vòng, chỉ thấy hai hòn đảo nhỏ kia đã thành hai ngọn núi đứng sừng sững, núi non quanh đó cũng cao lớn sừng sững hơn rất nhiều.
Lữ Cánh Nam nghe Đa Cát nói xong, liền dặn dò: "Đi thôi, ở đây không còn thông tin gì chúng ta cần nữa rồi, lên bờ rồi tính sau."
Bùn lắng dưới đáy hồ chỗ sâu chỗ nông, chỗ nông chưa tới mắt cá chân, chỗ sâu thì ngập lút cả chân, bước đi vô cùng khó khăn, song họ cũng không còn đường nào khác nữa cả. Trác Mộc Cường Ba để ý thấy hai người Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La bước đi trong đầm bùn mà bùn đất không lúc nào ngập quá mu bàn chân, trong lòng lấy làm ngưỡng mộ, thầm nghĩ đây chính là thành quả của Mật tu rồi, có cơ hội, mình nhất định phải luyện tập mới được.
Lên đến bờ, thấy đấy hồ bùn đầy bùn lắng, cá giãy đành đạch khắp nơi, thật khác một trời một vực với khi nãy, trong lòng mọi người đều dâng lên một cảm giác khó tả. Lữ Cánh Nam ngước mắt nhìn bầu trời, nhìn ngọn núi xa xa, sau đó hỏi: "Đi từ đây, cần bao nhiêu lâu mới đến được Cánh cửa Địa ngục?" Đa Cát coi như không nghe thấy, Trác Mộc Cường Ba đành phải lặp lại một lượt, Đa Cát mới nói: "Từ làng của chúng tôi, thời gian cần để đến Cánh cửa Sinh mệnh và Cánh cửa Địa ngục là như nhau, nếu trực tiếp từ Cánh cửa Sinh mệnh đến Cánh cửa Địa ngục… nhìn mọi người đều khỏe mạnh thế này, chắc chỉ cần bốn tiếng đồng hồ là tới được, có điều, nếu mang theo đàn bà, chỉ sợ là…"
Lữ Cánh Nam ngắt lời: "Biết rồi. Giờ trời đã tối muộn, chúng ta trở về thôn Công Bố trước, sáng sớm mai sẽ tới Cánh cửa Địa ngục xem thử, sau đó đi thẳng đến Cổ Cách. Giờ đã biết lộ tuyến của đối phương, chúng ta phải nhanh lên mới được." Nói đoạn, cô lấy điện thoại di động ra. Quả nhiên không có tín hiệu, vậy là cô lại lấy một bộ máy truyền tin đặc chế và thiết bị tiếp nhận tín hiệu vệ tinh cỡ nhỏ, bắt đầu liên lạc với thế giới bên ngoài.
Trương Lập tò mò hỏi: "Đa Cát, sao anh biết nhiều chuyện thế? Không phải là đang gạt chúng tôi đấy chứ?"
Đa Cát tỏ ý không hài lòng nói: "Sao tôi lại không biết được? Tôi là thợ săn giỏi nhất trong làng, tương lai sẽ kế thừa chức vị trưởng lão, những chuyện này các trưởng lão tự nhiên phải nói cho tôi rồi, tôi còn biết nhiều hơn Na Thâm nữa đấy. Mọi người muốn đi đến chỗ Tượng Hùng vương triều thật đấy à?"
Nhạc Dương nói: "Đương nhiên, không phải một Thánh sứ khác cũng đã đi rồi hay sao, chúng tôi cũng phải đến đó."
Đa Cát nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt thành khẩn: "Tôi cũng muốn đi."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Anh?" Đa Cát gật đầu: "Dù sao chúng tôi cũng là những người đời đời bảo vệ thánh địa, làm sao có thể cả thánh địa như thế nào cũng chưa từng thấy cho được? Tôi cảm thấy hết sức bất mãn trước cách làm của các vị trưởng lão trong làng, nếu một trăm năm trước có Đa Cát này, tuyệt đối sẽ không chấp nhận để người ngoài xông vào thánh địa mà chỉ nhìn thôi không làm gì đâu."
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi chỉ Lữ Cánh Nam nói: "Vậy cậu đi hỏi giáo quan, cô ấy nói được là được."
Đa Cát ngạc nhiên: "Cô ta? Không, tôi chỉ cần Thánh sứ đại nhân đồng ý là được rồi."
Sự cố của Đa Cát làm Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó xử, nếu để Lữ Cánh Nam nghe thấy Đa Cát nói vậy, thì thật không biết là như thế nào nữa. Đang định giải thích, Lữ Cánh Nam đã nói: "Đi thôi, chúng ta về thôn Công Bố, trực thăng cần thời gian điều phối, ít nhất cũng phải sớm mai mới tới đây được."
Trương Lập bắt ngay chỗ sơ hở của Lữ Cánh Nam, nói: "Giáo quan? Không phải nói dùng trực thăng rất nguy hiểm à? Tại sao lần này lại sử dụng vậy?"
--------------------------------
1 Bản tôn ở đây là dụng ngữ của Mật giáo, chỉ các vị thần Phật, chẳng hạn như Quan Thế m Bồ Tát, Văn Thủ Bồ Tát…
2 Trong truyện Sở Lưu Hương của Cổ Long, Thạch Quan m là một người đàn bà rất mạnh mẽ và độc ác.
HẾT TẬP 3