Mùa Hè

Chương 18 :

Ngày đăng: 13:53 19/04/20


Họ bắt đầu đi chậm trên con đường lộng gió đến thung lũng với những bước chân nặng nề, mệt nhọc của con ngựa già. Charity cảm thấy mình chìm trong sự rã rời, và khi họ đi xuyên qua những cây cối xác xơ, có những khoảnh khắc nàng mất đi sự chính xác về các sự vật. Nàng thấy dường như mình đang ngồi bên cạnh người yêu dưới vòm cây rậm lá đang cúi xuống trên họ giữa mùa hè. Nhưng ảo tưởng này yếu ớt và phù du. Hầu hết những gì nàng có, chỉ là những cảm xúc bối rối của sự trượt chân xuống dòng xoáy mà không thể nào cưỡng lại được; và trong cảm giác vằn vặt đó, nàng quên mình là kẻ đào tẩu.



Ông Royall trở nên ít nói. Lần đầu tiên ông cho nàng có một cảm giác an toàn và bình yên vì sự hiện diện lặng lẽ của ông. Nàng biết, nơi nào có ông thì nơi đó tràn đầy sự ấm áp, yên tâm, tĩnh lặng; và trong chốc lát nàng thấy đó là tất cả những gì nàng muốn. Nàng nhắm mắt lại và những điều này mờ mờ đến với nàng.



Trên xe lửa, suốt con đường ngắn từ Creston đến Nettleton, nàng cảm thấy ấm áp và tỉnh táo, được ngồi chung với những người xa lạ đã cho nàng một chút sinh khí. Nàng ngồi thẳng, đối diện với ông Royall. Nàng nhìn vào vùng thôn dã trần trụi qua cửa sổ. Bốn mươi tám giờ trước đây, khi nàng đi ngang, nhiều cây vẫn còn đong đưa những chiếc lá vậy mà cơn gió mạnh hai đêm vừa qua đã tước sạch không còn một chiếc nào, phong cảnh hai bên đường rõ ràng giống như cảnh của tháng Mười Hai.



Một vài ngày lạnh lẽo của mùa thu đã xóa hết dấu vết trù phú trên những cánh đồng. Giờ chỉ còn lại những lùm cây đứng uể oải thiếu sinh khí mà trước đây nàng đã đi qua vào ngày Quốc khánh 4 tháng 7. Với khung cảnh ủ rũ như thế cũng làm cho con người mất đi sự sôi nổi mà u buồn lây theo nó. Nàng không còn tin rằng mình là người đã từng sông qua những giờ phút đó, nàng là một ai khác đã phạm phải sai lầm mà không thể sửa sai được. Nàng cũng không thể chông lại những gì đã xảy ra, nhưng rồi những dấu vết đó hầu như đã tan biến theo từng bước chân tiến về phía trước.



Khi xe lửa đến Nettleton, nàng đi vào quảng trường bên cạnh ông Royall với cảm giác không có thật càng lúc càng tăng không thể nào chế ngự được. Sự căng thẳng thể xác của một ngày, một đêm nhường chỗ cho những cảm giác mới và nàng theo sau ông Royall một cách thụ động như đứa trẻ đang mệt mỏi. Như một giấc mơ lộn xộn, trong chốc lát nàng thấy mình đang ngồi cùng ông trong một căn phòng dễ chịu, có thức ăn nóng và trà được đặt sẵn ở một cái bàn có phủ một tấm vải đỏ và trắng. Ông rót đầy cốc trà và cho thức ăn vào đĩa của nàng. Bất cứ khi nào nàng nhướn mắt lên thì nàng cũng thấy ông nhìn mình một cách dịu dàng, kiên định giống như khi họ đối mặt nhau trong nhà bếp của bà Hobart.



Đôi mắt đầy thất vọng, trong ý thức của nàng mọi vật càng lúc càng trở nên lộn xộn và vô hình giống như ánh sáng mờ ảo hòa tan vào trong thế giới. Sự hiện diện kiên quyết của ông Royall đã bắt đầu tháo gỡ mọi phiền phức cho nàng.



Nàng đã luôn luôn nghĩ đến ông - khi nàng nghĩ tất cả về ông - thì ông là người đáng ghét và hay gây trở ngại. Ông là người mà nàng có thể đánh lừa và chiếm ưu thế khi nàng chọn kết quả. Duy nhất một lần, vào ngày kỷ niệm “Trở về Mái Nhà Xưa”, những câu ông ta nói, đã tản mạn trôi bềnh bồng trong trí óc buồn phiền của nàng. Nàng cho đó là những lời lẽ thông minh của kẻ thù mà kẻ thù đó lại là người nuôi dưỡng, bảo bọc nàng trong cuộc sống. Qua những giấc mơ của riêng nàng, ông chỉ là người đứng ngoài với thái độ bàng quang đáng kinh ngạc. Rồi trong một lúc, những gì ông nói - và điều gì đó trong cách nói của ông về nó - đã làm cho nàng thấy ông luôn luôn quật ngã nàng theo cách của một người đàn ông cô đơn. Nhưng màn sương mù bao phủ những giấc mơ của nàng giờ đây lại phủ kín ông, và nàng đã quên cảm giác mình là người đào tẩu.



Khi họ ngồi ở bàn, cảm giác cô đơn vô hạn trở lại với nàng, rồi nàng chợt cảm thấy có một sự gần gũi giữa hai người. Tuy nhiên những cảm giác này chỉ là những vệt sáng lờ mờ phát ra từ sự yếu đuôi của cơ thể nàng mà thôi. Chẳng mấy chốc, nàng nhận thấy ông Royall để nàng ngồi lại một mình bên cạnh bàn trong một căn phòng ấm áp. Một lúc sau, ông trở lại với một cỗ xe ngựa từ sân ga. Đó là một chiếc xe ngựa cho thuê có những bức màn che bằng tơ xanh màu bạc. Họ lái xe đến ngôi nhà có giàn dây leo đứng cạnh bên ngôi giáo đường có thảm cỏ phía trước. Chiếc xe ngựa chờ ở ngoài, họ ra khỏi nhà này, đi theo lối đi vào hành lang có ván ốp ở chân tường rồi vào căn phòng có rất nhiều sách. Trong phòng này, một vị tu sĩ mà Charity chưa hề gặp chào đón họ một cách vui vẻ, và mời họ ngồi chờ vài phút trong khi những người làm chứng được triệu tập đến.



Charity ngồi xuống một cách ngoan ngoãn vâng lời, còn ông Royall hai bàn tay để ra sau lưng, chầm chậm nhịp lên nhịp xuống trong căn phòng. Khi ông quay lại và đối diện với Charity, nàng phát hiện ra môi ông hơi run run: nhưng cái nhìn trong mắt của ông thì từ tốn và ngọt ngào. Rồi ông dừng lại trước nàng và nói một cách nhút nhát: “Tóc em bị gió làm tuột”. Nàng nhấc đôi bàn tay lên, cố gắng vuốt cho nó suôn về phía sau và cột chặt bằng dây cột tóc. Có một cái kính soi lồng trong một khung chạm khắc trên tường, nhưng nàng mắc cỡ không dám soi mình trong đó. Nàng ngồi hai tay khoanh trên gối cho đến khi vị giáo sĩ trở lại. Họ lại đi ra dọc theo hành lang có mái vòm rồi vào một căn phòng cũng được xây theo hình vòm có một cây thánh giá trên bàn thờ và nhiều dãy ghế. Vị giáo sĩ trong chốc lát lại xuất hiện trước bàn thờ trong bộ áo tế, và một phụ nữ có lẽ là vợ của ngài cùng một người đàn ông mặc chiếc áo sơ mi xanh, người ấy đã gom những chiếc lá chết trong bãi cỏ, đến ngồi vào một trong những hàng ghế.



Vị giáo sĩ mở sách rồi ra dấu cho Charity và ông Royall đến gần. Ông Royall tiến về phía trước ít bước, và Charity theo sau như đã theo ông đến chiếc xe độc mã khi họ ra khỏi nhà bếp của bà Hobart; nàng cảm thấy rằng nếu nàng chần chừ không tiến bước gần ông và không làm theo những gì ông bảo thì thế giới sẽ sụp đổ dưới chân nàng.



Vị giáo sĩ bắt đầu đọc, trong lúc đó đầu óc choáng váng của nàng nổi lên hình ảnh ngài Miles đứng trong đêm trước căn nhà quạnh hiu của Núi, và đọc trong cùng một cuốn sách những lời mà nó có cùng một giọng kinh khiếp sau cùng:



“Tôi cần cho anh chị biết vào ngày phán xét cuối cùng kinh khiếp, mọi bí mật của con tim đều bị phơi trần mà mỗi người trong anh chị nếu có điều gì đó làm ngăn trở đăng ký giá thú thì việc kết hôn sẽ không hợp pháp.”



Charity nhướn mắt lên bắt gặp đôi mắt của ông Royall. Đôi mắt đó vẫn nhìn nàng tử tế và thiết tha. Một lúc sau, nàng nghe ông nói: “Tôi sẵn sàng!” nhưng rồi nàng không thể nắm bắt được những lời tiếp theo vì nàng đang bận tâm để hiểu cử chỉ của vị giáo sĩ đang ra hiệu cho nàng phải nói theo những gì ngài đọc. Sau đó người phụ nữ đứng lên, lấy bàn tay nàng đặt vào tay ông Royall. Bàn tay nàng nằm gọn trong lòng bàn tay khỏe mạnh, và nàng thấy một chiếc nhẫn rất lớn để nàng xỏ ngón tay thanh mảnh của mình vào. Rồi nàng hiểu mình đã kết hôn.
Nàng đến đó trong nỗi sợ như có ma ám từ khi nàng mang chiếc nhẫn của ông Royall: nỗi lo sợ rằng Harney sẽ được tự do và tìm về với nàng. Đó là khả năng mà không bao giờ xảy ra cho nàng suốt những giờ khắc đau buồn sau khi nàng nhận được lá thư của anh ta; chỉ khi có quyết định dứt khoát nàng đã trở lại mong muốn hiểu được sự kiện bất ngờ xảy ra. Nàng đề địa chỉ trên phong bì và trên tờ giấy nàng viết:



Em đã lấy ông Royall. Em sẽ luôn nhớ anh.



Những lời cuối trong thư chưa phải là lời cuối cùng nàng muốn viết, chúng tự theo ngòi bút của nàng mà không thể nào cưỡng lại được. Nàng không có sức mạnh để hoàn thành sự hy sinh của mình; nhưng cuối cùng, chuyện gì sẽ xảy ra? Bây giờ không có cơ hội để gặp lại Harney thì tại sao nàng không bảo cho anh ta biết sự thật?



Nàng bỏ lá thư vào thùng, bước ra con đường nhộn nhịp chan hòa ánh nắng và đi về khách sạn. Phía sau những cửa sổ kiếng của các cửa hàng, nàng thấy y phục phụ nữ trưng bày bắt mắt với những chất liệu đẹp làm nhen lên ngọn lửa tưởng tượng của nàng vào ngày nàng và Harney đã nhìn ngắm chúng. Rồi chúng cũng nhắc cho nàng nhớ huấn thị của ông Royall là nàng hãy ra ngoài và mua những gì nàng cần. Nàng nhìn xuống cái áo sờn mòn của mình và tự hỏi nàng sẽ phải nói gì khi ông nhìn thấy nàng trở về tay không. Khi về đến gần khách sạn, nàng thấy ông đứng chờ trên ngưỡng cửa, và tim nàng bắt đầu đập với nỗi e sợ.



Ông gật đầu và vẫy tay khi nàng đến gần, rồi họ đi qua sảnh và lên lầu để lấy đồ đạc của họ. Ông Royall có lẽ bỏ lại chìa khóa phòng khi họ lại đi xuống để dùng bữa ăn trưa.



Trong phòng ngủ, khi nàng ném vào túi một vài thứ linh tinh mà nàng đã mua cho “chuyến bay xa” của mình thì thình lình nàng thấy đôi mắt ông nhìn mình và sắp nói. Nàng đứng đờ ra, trong tay cầm cái áo ngủ gấp hờ, trong khi máu chạy dồn lên đôi má hốc hác.



“Ồ, em đã đi ra ngoài mua sắm hào phóng chứ? Sao anh không thấy gói đồ nào hết vậy?” - ông ta nói một cách khôi hài.



“Ồ, em thích để cho Ally Hawes may vài thứ mà em muốn.” - nàng trả lời.



“Vậy sao?” - ông ta nhìn nàng một cách nghĩ ngợi một lúc, và đôi lông mày dựng lên trong sự cáu tiết. Nhưng rồi gương mặt trở lại thân thiện như cũ. “Ừ, anh muốn em trở về nom có vẻ hợp thời trang hơn bất cứ cô gái nào ở đó, nhưng anh nghĩ em đúng. Em là một cô gái tốt, Charity.”



Đôi mắt họ gặp nhau, và có một điều gì đó nổi dậy trong ông mà nàng chưa bao giờ thấy: một cái nhìn làm nàng cảm thấy thẹn thùng và có cảm giác an toàn.



“Em cũng nghĩ anh tốt.” - nàng nói nhanh và có vẻ mắc cỡ. Ông mỉm cười không trả lời, và họ cùng nhau rời phòng và đi xuống sảnh bằng thang máy sáng trưng.



Trong đêm trăng thu lạnh muộn màng hôm đó, họ về đến cửa ngôi nhà màu đỏ.