Mười Tội Ác 1: Bóng Ma Đêm Mưa
Chương 8 : Kỳ án về những bộ xương trắng
Ngày đăng: 12:39 18/04/20
Này! Đây là lời nói cuối cùng của tôi, rằng tôi tin tình yêu của em – Tagore.
Cô bé đương độ trăng rằm mặc chiếc váy đỏ lững thững thả bước trên con hẻm hoang liêu dài tít tắp, hoa tường vi nở rộ, trời chạng vạng tối, mưa như rây bột nhẹ nhàng vuốt ve từng góc phố, cô bé mang vẻ mặt âu sầu ngắt một đoá tường vi, lòng cô ngổn ngang trăm mối, cô bước vào khúc ngoặt, rồi biến mất…
Chẳng biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, cô bé mới tỉnh dậy và phát hiện mình đang ngồi trong một chiếc thùng sắt. Cô bé vô cùng hoảng sợ, không thể lí giải nổi vì sao mình lại ở đây, chỉ loáng thoáng nhớ khi đi qua góc phố thì bị một bàn tay bịt chặt miệng và mũi, sau đó cô liền bất tỉnh nhân sự.
Cô bé muốn hét to kêu cứu nhưng phát hiện miệng mình bị nhét giẻ.
Cô bé muốn giãy giụa nhưng phát hiện tay mình bị trói chặt bằng dây thép, cả chân cũng bị trói gô lại.
Cô bé ngửi thấy mùi tanh hôi toả ta từ động vật, nắp thùng sắt đột ngột mở ra, liền sau đó rất nhiều chuột đổ ào ào vào thùng. Cô bé khiếp đảm kêu ú ớ, toàn thân run lẩy bẩy, càng lúc càng nhiều chuột hơn vây kín lấy cô, chỉ chừa mỗi phần đầu lộ ra ngoài.
Mỗi lần cô cố gắng giãy giụa trong vô vọng thì bầy chuột bu quanh người lại được phen huyên náo.
Nắp thùng đậy lại, tiếng khoá sắt vang lên xủng xoẻng, rõ ràng nó đã bị khoá.
Một người đàn ông ngồi trước thùng sắt, lẩm bẩm nói vọng vào trong bằng giọng rất nặng tình:
Anh ngắm ảnh của em suốt đêm, hôn qua tấm kính, nếu không để ảnh em vào khung kính, anh sợ nụ hôn của mình sẽ làm ảnh ướt mất, làm tà váy đỏ của em ướt mất. Anh nhớ em! Anh luôn yêu em! Anh lang thang khắp thành phố này đến thành phố khác, vượt trăm núi ngàn sông chỉ để tìm em, chỉ để được gấn bên em. Tim anh đập liên hồi trong lồng ngực, anh chẳng có cách nào khác chiếm hữu em và tìm thấy em ngoài cách dùng nỗi sợ áp chế em. Điều duy nhất anh có thể làm để em không thuộc về ai khác chính là – giết chết em!
Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc ân cần hỏi thăm: “Tiểu My, vết thương của cô thế nào?”
Tô My đáp: “Tôi khỏi rồi! Chỉ cần sau này không mặc váy hai dây hở vai nữa là ổn!”
Phó cục trưởng khuyên nhủ: “Đã là cảnh sát thì cần chú ý ăn mặc đoan trang một chút! À! Đúng rồi! Lần này tổ chuyên án phải đến thị trấn Ô Đường, một vùng quê sông nước thuộc tỉnh Giang Nam. Tôi nhắc cô lưu ý khi tới đó cô tuyệt đối không được mặc váy đỏ đấy!”
Giáo sư Lương phản xạ rất nhanh, liền hỏi: “Mới xảy ra vụ án lớn nào ở thị trấn Ô Đường sao?”
Bao Triển cũng tò mò chen vào: “Mặc váy đỏ thì làm sao ạ?”
Phó cục trưởng trả lời: “Trong vòng một tháng mà ba cô bé trong thị trấn đã mất tích, cả ba cô đều mặc váy đỏ.”
Họa Long nhìn hồ sơ vụ án chửi thề: “Khỉ thật! Kẻ báo án vụ án mất tích xảy ra cuối cùng không ngờ lại là…”
Phó cục trưởng gật đầu thừa hận: “Đúng vậy! Nói ra thì chẳng ai tin nhưng kẻ báo án không phải là người mà lại là một con chuột cụ.”
Thị trấn nhỏ giữa sông nước mênh mang vùng Giang Nam là thị trấn có truyền thống làm tơ lụa, thường ngày nơi đây rất yên ắng tinh mịch, liễu rủ nghiêng nghiêng mặt hồ. Trong mỗi con ngõ nhỏ đều có một cô gái mặc áo dài cầm ô giấy dầu đứng bên phiến đá xanh. Từng kiến trúc, từng mái nhà ven đường đều phảng phất phong vị hoài cổ. Nhịp sống nơi thị trấn nhỏ ven sông rất nhàn tản, êm đềm, không có xe cơ giới, chỉ thỉnh thoảng thấy chiếc xe đạp nhẩn nha chạy thoáng qua. Phương tiện chủ yếu mà người dân ở đây sử dụng là thuyền.
Trong phòng an ninh chủ tịch thị trấn Ô Đường trình bày sơ qua tình hình vụ án với tổ chuyên án, sáng ngày l9 tháng 7 năm 2008, mấy đồng chí dân phòng đang nghe hát ở quán trà, cô ca sĩ đứng trên sân khấu mặc chiếc váy dài màu đỏ kiểu cổ trang, giọng hát trong vắt, uyển chuyển đến rung động lòng người, lại vừa mang đậm vẻ gợi cảm của miền sông nước Giang Nam. Cô đang say sưa hát thì bất chợt ngừng lại, âm thanh tắt lịm, ánh mắt khiếp đảm hướng ra cửa, mấy người dân phòng liền ngoái đầu lại theo hướng ánh nhìn của cô gái. Họ thấy một con chuột lắc lư thân mình đi vào quán trà một cách ngạo nghễ.
Đó là một con chuột rất to, bụng tròn vo như cái ấm trà, kéo theo cái đuôi dài ngoằng, nom nó phải to gấp đôi những con chuột bình thường.
Điều khiến người ta cảm thấy quái dị là toàn thân nó nhuốm màu đỏ, người ướt ròng như thể vừa bò từ thùng sơn ra vậy.
Một dân phòng bạo gan cầm mũ cói rón rén bước đến gần nó, chắc tại con chuột ăn quá no, bụng lùm lùm như cái trống nên chẳng còn hơi sức đâu mà tháo chạy, nó bị dân phòng nọ lấy mũ cói chụp gọn. Mọi người xúm đông xúm đỏ lại xem, một dân phòng dày dạn kinh nghiệm chỉ vào con chuột và nói: “Máu đấy! Khắp người nó toàn là máu!”
Rồi họ tìm thấy một chiếc váy đỏ ở ven bờ sông ngay trước cửa quán trà. Lấy gậy tre khều chiếc váy vào bờ, họ nhìn thấy trên thân váy thủng mấy lỗ, còn có rất nhiều vết tích bị gậm nhấm. Các nhân viên trong đội dân phòng lập tức triển khai lục soát khu vực ven bờ sông, họ phát hiện trong lòng sông có một vài tấm lưới đánh cá trong lưới là hai chiếc váy đỏ khác.
Ba chiếc váy đỏ đều dính máu, trong đó hai chiếc váy có cùng kiểu dáng.
Thông qua điều tra, chủ tịch thị trấn và ban an ninh xác nhận trong thị trấn quả đúng có ba cô bé vừa mất tích, khi mất tích họ đều mặc váy đỏ.
Tô My hỏi: “Đã cho xét nghiệm vết máu chưa? Máu dính trên người con chuột có cùng nhóm máu dính trên váy không?”
Bao Triển cũng hỏi: “Thức ăn trong dạ dày chuột gồm những gì? Đã có kết quả giải phẫu chưa?”
Chủ tịch thị trấn nói: “Đã gửi mẫu xét nghiệm lên thành phố rồi! Ở thị trấn nhỏ chúng tôi không có viện pháp y, phương tiện vận chuyển bằng thuyền nên nhanh nhất phải ngày mai mới có kết quả khám nghiệm.”
Giáo sư Lương nói: “Giờ anh hãy kể tường tận cho tôi nghe về vụ ba cô bé mất tích!”
Chủ tịch thị trấn nói ngày mồng một tháng bảy, một cô bé tên là Hoàn Ngọc rời khỏi cửa hàng thêu Chữ Thập trên thị trấn vào lúc khoảng tám giờ tối, sau đó không ai nhìn thấy cô bé nữa. Ngày mười lăm tháng bảy, hai nữ sinh rời khỏi trung tâm dạy vẽ, một cô tên là Mạc Phi, còn cô kia tên là Triệu Tiêm Tiêm, lúc ấy cũng khoảng tám giờ tối. Sau khi rời khỏi đó, cả hai cùng biến mất một cách thần bí. Sáng ngày mười sáu, Đội dân phòng phát hiện một con chuột lớn với thân mình bết máu, ngoài ra họ còn vớt được ba chiếc váy đỏ dưới lòng sông. Ba cô bé mất tích một cách khó hiểu, sống không thấy người, chết không thấy xác. Căn cứ vào kết quả điều tra, chúng tôi phát hiện cả ba cô bé đều có chung một điểm: đều mặc váy đỏ!”
Bao Triển nhìn bản đồ thị trấn Ô Đường, rồi bảo: “Cả ba cô bé đều mất tích trên cùng một con phố!”
Giáo sư Lương phán đoán: “Cuối tháng, có khả năng đến cuối tháng sẽ có thêm một cô bé mặc váy đỏ nữa bị mất tích và bị sát hại.”
Chủ tịch thị trấn giật bắn mình hỏi lại: “Sao ông biết?”
Giáo sư Lương giải thích: “Hoàn Ngọc mất tích vào ngày mồng một, Mạc Phi và Triệu Tiêm Tiêm mất tích vào ngày mười lăm, cứ cách nửa tháng lại xảy ra một vụ mất tích vào lúc tám giờ tối. Hung thủ có quy luật giết người nhất định, nên rất có khả năng sau mười lăm ngày, tức cuối tháng này, y sẽ ra tay hạ thủ thêm một cô bé mặc váy đỏ nữa!”
Lực lượng cảnh sát địa phương rất mỏng, không đủ triển khai vụ án, chỉ có viên trưởng công an xã và mấy cảnh sát viên, thêm một vài dân phòng nữa. Giáo sư Lương tập hợp họ lại, phân công công việc cụ thể.
Tô My và chủ tịch thị trấn việc lấy lời khai của thân quyến nạn nhân, trọng điểm điều tra là phải hỏi cho ra những nhân vật mà họ thấy khả nghi, đặc biệt hỏi xem họ có thấy biểu hiện hay tình hình gì khác thường trước khi vụ mất tích xảy ra mấy hôm không.
Bao Triển và đội trưởng đội dân phòng tiến hành điều tra lại cửa hàng thêu Chữ Thập và lớp dạy hội hoạ, đồng thời vẽ chi tiết bản đồ phân bố của con phố nơi ba cô bé mất tích, cũng như khu vực ven sông, ngõ hẻm xung quanh.
Họa Long và nhân viên đội dân phòng phụ trách bắt chuột, chú ý tìm kiếm kĩ lưỡng các góc chết như thùng rác gần quán trà và dưới cống, quan sát xem còn con chuột nào dính máu nữa không.
Chủ tịch thị trấn nói: “Chúng tôi đã làm hết những công việc giáo sư vừa giao, nhưng không phát hiện bất kì manh mối nào hữu dụng cho việc phá án.”
Giáo sư Lương nói: “Làm đi, không được thì phải làm lại, làm lại không được thì làm lại nữa, làm đến khi nào phát hiện ra manh mối mới thôi.”
Thế là Tô My và chủ tịch thị trấn bắt đầu tiến hành thẩm vấn bố mẹ của Hoàn Ngọc từ đầu. Hoàn Ngọc mới mười sáu tuổi, khi bước chân vào lớp sáu, cha mẹ cô bé li hôn, mẹ tái giá theo chồng mới về thị trấn Ô Đường sinh sống, cha dượng đối xử rất tệ bạc với cô bé, cô thường xuyên bị cha dượng đánh chửi, bạn học và láng giềng xung quah nhận xét Hoàn Ngọc là cô bé sống nội tâm, nhạy cảm và tự ti. Hôm sinh nhật, cô bé được mẹ tặng một chiếc váy đỏ cô vô cùng vui sướng nhưng vì chuyện đó mà cha dượng và mẹ cãi nhau một trận kịch liệt Hoàn Ngọc đau lòng chạy ra khỏi nhà. Cuộc sống gia đình khó khăn nên cô bé phải giúp mẹ nhận thêm công việc thêu thùa. Tối hôm sinh nhật, cô bé vừa khóc vừa mang sản phẩm mình mới thêu xong đến cửa hàng Chữ Thập, rồi mất tích từ đó.
Tô My và chủ tịch thị trấn đi tiếp đến nhà Mạc Phi. Mẹ Mạc Phi là một phụ nữ trí thức, lời ăn tiếng nói toát lên vẻ có học, có điều vì con gái mất tích nên bà rất lo lắng và đau đớn, nghẹn ngào khóc mãi. Lần trước chủ tịch thị trấn đã đến đây nhưng không hỏi ra được nguồn cơn, chỉ nắm được vài thông tin cơ bản. Từ nhỏ Mạc Phi đã tỏ ra đa tài, lại thêm nhờ mẹ có phương pháp giảng dạy nên cô bé tinh thông cầm kì thi hoạ. Nhân dịp nghỉ hè, mẹ cho cô bé đến lớp học vẽ ở trên thị trấn để nâng cao khả năng hội hoạ, nhưng không hiểu vì sao cuối tuần này mẹ Mạc Phi không thấy con về thăm nhà như thường lệ. Sau khi dân phòng phát hiện thấy chiếc váy bên bờ sông, họ liền mang chiếc váy đến lớp học vẽ cho các bạn cùng lớp Mạc Phi nhận diện, mọi người đều xác nhận đó chính là chiếc váy mà Mạc Phi mặc trước khi mất tích. Đội trưởng đội dân phòng cũng mang chiếc váy cho mẹ của Mạc Phi nhận diện, bà quan sát tỉ mẩn từng chi tiết, rồi ngã vật xuống ngất xỉu…
Tô My cố tình tách khỏi chủ tịch thị trấn, khẽ hỏi mẹ của Mạc Phi: “Hi vọng cô phối hợp hết sức với phía cảnh sát, cô hãy kể hết cho chúng tôi biết mọi chuyện, ngay cả những chuyện gì mang tính riêng tư.”
Mẹ của Mạc Phi gạt nước mắt gật đầu.
Tô My hỏi: “Mạc Phi – con gái của cô có bạn trai chưa?”
Mẹ Mạc Phi ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Con bé Phi nhà tôi trông thanh tú, xinh xắn nên có rất nhiều bạn nam theo đuổi, nhưng nó mới mười bảy tuổi, hơn nữa gia đình tôi lại giáo dục cháu rất nghiêm khắc nên phản đối chuyện yêu sớm. Chồng tôi đi làm ăn xa ở ngoại tỉnh nên thường ngày chỉ có hai mẹ con sống với nhau.”
Tô My khơi gợi: “Cô nghĩ kĩ lại xem! Cô có phát hiện thấy chuyện gì bất thường không?”
Mẹ Mạc Phi chợt vỗ đầu bảo: “Nói vậy khiến tôi nhớ ra một chuyện!”
Buổi đêm trước hôm xảy ra vụ án một ngày, mẹ Mạc Phi biết điều hoà trong phòng cô bé luôn trong trạng thái mở, sợ con bị lạnh, bà liền trở dậy vào phòng con định tắt điều hoà. Bà chợt nghe thấy tiếng nói chuyện thì thào vọng ra từ phòng con gái, lắng tai nghe một hồi, ngỡ con gái nói mê, bà liền gõ cửa, rồi mở cửa bước vào. Khi bước vào phòng, bà mới phát hiện con gái vẫn chưa ngủ, cô bé đột ngột ngồi bật dậy, mặt mày tái mét, chân tay luống cuống. Bà hỏi con gái có phải vừa gặp ác mộng không? Cô bé không trả lời, toàn thân run lẩy bẩy. Bà ngờ ngợ đoán ra chắc con gặp phải chuyện gì đó rất đáng sợ nhưng không dám nói. Bà âm thầm quan sát khắp phòng, thấy cửa sổ mở toang. Cô con gái giơ ngón tay trỏ đặt lên môi ra hiệu im lặng. Bà vô cùng ngạc nhiên, nhưng không nói gì, bà thấy con gái từ từ bỏ tay khỏi môi rồi chỉ vào tấm chăn trước bụng mình. Cô bé ngồi trên giường, đắp chăn kín nửa thân dưới, tấm chăn phồng lên một cách đáng ngờ, không rõ dưới chăn có gì.
Mẹ Mạc Phi định tiến lại gần, lật chăn ra, nhưng bất ngờ có một người từ trong chăn nhảy vọt ra, tung chăn trùm lên đầu mẹ Mạc Phi, rồi nhảy qua cửa sổ biến mất dạng. Đa số cửa sổ của các ngôi nhà trong thị trấn Ô Đường đều gần nước, mẹ Mạc Phi chỉ nghe “tõm!” một tiếng. Kẻ đó nhảy xuống nước, bơi đi mất.
Lúc bấy giờ Mạc Phi mới oà lên khóc và ôm chặt lấy mẹ.
Mạc Phi kể lúc đang ngủ say, cô bé chợt mơ hồ thấy cửa sổ phòng bị mở toang, cô lật người sang bên kia ngủ tiếp. Điều hoà trong phòng vẫn bật, Mạc Phi có thói quen bật điều hoà đắp chăn khi ngủ. Cô bé lơ mơ thấy trong chăn có thêm ai đó thì phải, kẻ đó nằm nghiêng ngay bên cạnh cô. Mạc Phi giật mình mở choàng mắt, cô bé thấy một đôi mắt đen như vực sâu cũng đang nhìn mình. Trong bóng tối, Mạc Phi không nhìn rõ khuôn mặt kẻ ấy, cô bé định hét lên nhưng kẻ đó đã nhanh tay bịt miệng cô lại, rồi gí tuốc nơ vít vào cô. Đúng lúc ấy mẹ Mạc Phi gõ cửa bước vào, cô bé giả vờ trấn tĩnh mặc dù dưới chăn, ngay phần thân dưới của cô bé có một tên côn đồ đang ẩn náu.
Chuyện xảy ra một lúc lâu, hai mẹ con mới hoàn hồn, họ cho rằng trộm xông vào nhà. Nhưng vì chưa mất mát tài sản gì nên không báo cho cảnh sát. Ngay ngày hôm sau, mẹ Mạc Phi đã gọi người đến làm tấm lưới bảo vệ lắp ngoài cửa sổ, còn chặt hết cây mọc cạnh tường. Tổ chuyên án tiến hành phân tích manh mối mà mẹ Mạc Phi mới cung cấp. Mọi người nhất trí cho rằng đó chỉ là vụ đột nhập trộm cắp hoặc nhất thời nảy ra ý định đột nhập cưỡng hiếp, có lẽ không liên quan gì đến vụ án ba cô gái đồng loạt mất tích. Hung thủ mang theo tuốc nơ vít với mục đích ăn trộm chứ không phải vì muốn hành hung.
Bao Triển điều tra rất kĩ lưỡng về lớp bồi dưỡng hội họa nọ. Lớp học này do một họa sĩ có chút tiếng tăm trong vùng mở ra, anh họa sĩ để tóc dài, trông đậm chất nghệ sĩ. Nghe họa sĩ tóc dài nọ kể thì lớp học này mới mở được một tuần kế từ dịp hè, học viên hầu hết đến từ các thành phố lân cận, cha mẹ Triệu Tiêm Tiêm đi công tác nước ngoài quanh năm nên một mình cô bé đến thành phố này ghi tên xin học vẽ, cô bé chơi khá thân với Mạc Phi, hai cô bé thường mặc trang phục giống nhau. Hôm hai cô bé mất tích, họ đều mặc một chiếc váy đỏ.
Họa Long và nhân viên đội dân phòng không bắt thêm được con chuột dính máu nào, có điều họ vớt được một chiếc hũ ở dòng sông mà trước đó cảnh sát tìm thấy chiếc váy đỏ dính máu.
Trong hũ đựng vật gì đó được bọc kín trong mấy lớp nilon, rồi dùng dây thép buộc chặt lại, chiếc hũ sành nặng trịch.
Một anh dân phòng đoán già đoán non: “Chắc đây là vò rượu, nên có lẽ thứ bên trong là rượu.”
Anh khác nói: “Bà ngoại tôi thường muối trứng vịt trong mấy chiếc hũ kiểu này, hay là trong đó là trứng vịt nhỉ?”
Chiếc hũ được niêm phong rất chặt, khi đội chuyên án mở ra thì ai cũng bàng hoàng không thể tin nổi cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Anh dân phòng không nén được tò mò liền hỏi nhỏ Họa Long xem trong đó đựng gì. Họa Long chậm rãi đáp: “Người anh em! Trong này không phải rượu, cũng chẳng phải trứng vịt đâu!”
Anh đân phòng lại càng hiếu kì hơn, hỏi dồn: “Thế rốt cuộc là gì?”
Họa Long đáp: “Trong hũ có người!”
Họa Long từng trải qua muôn vàn nguy hiểm trong đời, anh biết mình buộc phải bình tĩnh mới có thể hoá nguy thành an.
Họa Long nghiên cứu kĩ hoàn cảnh của mình, một vài con chuột bắt đầu mon men gặm nhấm chân anh. Anh ngồi im bất động, nghé mắt nhìn thấy cửa sổ qua lỗ thoát khí. Càng lúc càng nhiều chuột cả gan lao đến cắn anh. Họa Long lật người lại, đè chết mấy con liền một lúc. Ngón tay anh chợt chạm phải sợi dây thép trói cổ chân.
Đột nhiên Họa Long nảy ra một sáng kiến. Anh đã nghĩ ra cách thoát hiểm.
Trong tình trạng bị trói quặt cổ tay ra sau và trói cả cổ chân, thì người ta chỉ cần uốn cong người hoặc làm tư thế giống như quỳ là có thể dùng tay cởi được nút thắt ở cổ chân. Họa Long cố gắng nhịn cơn đau do bị chuột cắn, anh với tay nới lỏng đầu xoắn của đây thép. Dây thép giúp anh tìm lại hi vọng, bởi nó sẽ trở thành phương tiện cứu mạng duy nhất của anh.
Nếu hai tay được giải phóng thì anh có thể uốn dây thép thành hình móc, luồn qua lỗ thoát khí rồi móc vào thành cửa sổ, kéo chiếc thùng vào gần mép cửa sổ, sau đó lật người, chiếc thùng sẽ rơi từ cửa sổ xuống con kênh gần đó. Thế là anh sẽ có cơ hội được cứu thoát.
Ngặt nỗi hiện giờ hai tay Họa Long lại bị trói chặt, anh không thể tự cởi dây thép đang thít chặt nơi cổ tay.
Theo quán tính tư duy thì tay là bộ phận linh hoạt nhất, nhưng riêng với bộ đội đặc công và cảnh sát vũ trang thì đôi chân của họ lại vô cùng linh hoạt bởi họ thường xuyên phải trải qua các bài tập huấn luyện dùng chân bắn súng. Họa Long là sĩ quan cảnh sát vũ trang, nên đôi chân anh càng đặc biệt linh hoạt. Đôi chân vừa được giải phóng, anh liền đá chết mấy con chuột những mong mình có thêm thời gian sống sót. Không gian trong thùng sắt vô cùng chật chội, người Họa Long dính đầy máu chuột, tanh hôi đến lợm giọng.
Họa Long dùng chân uốn đầu móc thép thành hình móc câu, rồi luồn qua lỗ thoát khí, thận trọng ngoắc vào bậu cửa sổ, sau mấy lần điều chỉnh, Họa Long đã tìm ra tư thế thích hợp nhất, hai chân thay nhau kéo dây thép, nhờ sức khỏe phi thường cuối cùng anh cũng dựng được thùng sắt đứng lên.
Họa Long lại lấy chân đạp vào vách thùng, rồi rung lắc mấy cái, nhân lúc thùng sắt nghiêng ngả, anh đập mạnh thùng sắt vào cánh cửa sổ gá hờ, chiếc thùng rơi tõm xuống nước.
Cả quá trình diễn ra đúng là kinh thiên động địa!
Khi thùng sắt rơi xuống kênh, lão mù đang ngồi cứng đơ như pho tượng trong sân, ông không nhìn thấy nhưng bù lại thính giác vô cùng nhạy bén, nhất là khi chiếc thùng sắt rơi từ căn gác đối diện xuống nước nghe “Ùm!” một tiếng, bọt bắn tứ tung, ngay cả bác sĩ thú y cũng nghe thấy. Cuối cùng hai người họ xúm lại vớt chiếc thùng sắt lên bờ và cứu Họa Long thoát khỏi nấm mồ tăm tối.
Họa Long dẫn theo dân phòng trở lại căn nhà tội ác kia, nhưng gã thanh niên đã biến mất dạng.
Khi mở hai thùng sắt khác trong căn gác ra thì thấy mỗi thùng đều chứa một thi thể. Sau khi kiểm định, kết quả cho thấy hai cỗ thi thể đó lần lượt là của Mạc Phi và đứa cháu trai của lão mù.
Tô My đưa cho Họa Long nhận diện ảnh của Mã Lưu. Anh lập tức nhận ra. Tuy gã thanh niên đó đã chỉnh sửa khuôn mặt nhưng anh vẫn biết y chính là Mã Lưu.
Theo lời kể của chủ cho thuê phòng trọ, Mã Lưu mới thuê căn gác này được một thời gian ngắn, thường ngày rất ít khi ra khỏi phòng, cũng rất ít người đến đây thăm y.
Giáo sư Lương nói: “Y chỉ sử đụng căn gác này để gây án mà thôi, còn ngày thường y đóng giả thành Triệu Tiêm Tiêm, hoặc có thể nói y biến thành Triệu Tiêm Tiêm. Chỉ khi giết người y mới trở về đúng con người mình.”
Qua suy đoán và phân tích, giáo sư Lương cho rằng Triệu Tiêm Tiêm đã gặp nạn và tử vong. Ba năm trước Mã Lưu đã giết chết Triệu Tiêm Tiêm, đồng thời rất có khả năng y vô tình biết được Triệu Tiêm Tiêm từng bị cưỡng hiếp tại thị trấn Ô Đường. Vậy là ba năm sau Mã Lưu giả dạng Triệu Tiêm Tiêm đến thị trấn Ô Đường để truy tìm hung thủ đã bức hại cô bé. Vì căm thù những người mặc váy đỏ nên gã thanh niên biến thái đã lần lượt giết chết Hoàn Ngọc và Mạc Phi, sau đó y điều tra ra chính đứa cháu trai của lão mù đã cưỡng hiếp Triệu Tiêm Tiêm nên y đã ra tay giết chết cậu ta.
Chủ tịch thị trấn ngạc nhiên hỏi: “Trông đứa bé đó có vẻ rất thật thà, lý nào nó dám làm chuyện ấy?”
Giáo sư Lương nói: “Đây chỉ đơn thuần là phân tích và phỏng đoán của cá nhân tôi chứ chưa hẳn là sự thật, chỉ khi truy bắt đưọc Mã Lưu thì mới biết rõ chân tướng.”
Cảnh sát lập tức phát lệnh truy nã nhưng mãi vẫn chưa bắt được Mã Lưu. Gã thanh niên ấy như thể bốc hơi thành không khí vậy. Không một người nào nhìn thấy nữa! Theo như mô tả trên lệnh truy nã thì kẻ này thường ngụy trang thành phụ nữ nên rất khó nhận diện, có lẽ bởi thế nên chẳng ai nhận ra y.
Trong thành phố mà chúng ta đang sống, bất kì cô gái mặc váy đỏ nào cũng có khả năng là Mã Lưu!
Mấy ngày sau, tay họa sĩ tóc dài và “cô” ca sĩ cũng biến mất khỏi thị trấn. Có người phát hiện một bài thơ trong phòng thay y phục ở quán trà:
Hoàn Ngọc hồn cốt hóa trần ai
Ô Đường tàn mộng tình thế thái
Tiêm Tiêm khuất bóng hương thoáng bay
Phi Phi một đi không trở lại
Lầu xuân cưỡng bức nhành hoa nhài
Vườn lê văng vẳng kúc bi ai
Chuyện cũ khóa chặt quan tài sắt
Ai người hay biết thuở sơ khai.
Bài thơ này viết trên một trang giấy, nét chữ mềm mại, thanh thoát, trên tờ giấy còn đặt một con dao dính máu!
Tô My và Bao Triển đi lòng vòng mấy lượt cuối cùng cũng tìm thấy nhà của Mã Lưu. Hai bố mẹ y đã qua đời, một mình y sống trên tầng trên cùng của một khu tập thể cũ nát. Tô My, Bao Triển và cảnh sát địa phương cùng xô cửa xông vào. Phòng ngủ của Mã Lưu bám đầy bụi, nom như khuê phòng của con gái. Qua ảnh Bao Triển phán đoán Mã Lưu cố tình trang hoàng phòng của mình giống hệt với phòng của Triệu Tiêm Tiêm. Đôi lúc anh không thể không nể phục khả năng của con người. Bởi y cơ hồ đã sao chép căn phòng của mình giống phòng của Triệu Tiêm Tiêm như đúc. Từ giường ngủ, gối đầu, bàn học đến chiếc đèn bàn nhỏ nhắn đều không hề có điểm nào khác biệt. Chắc chắn y phải rất tốn công tốn sức mới tìm được đầy đủ vật dụng như vậy. Trong một bức thư, Mã Lưu viết rằng y từng trốn dưới gầm giường nhà Triệu Tiêm Tiêm, từng dùng cắt móng tay của cô bé, lén lấy trộm chìa khóa phòng của cô bé.
Trong ngăn kéo bàn học, Tô My tìm thấy một hộc đầy những lá thư không gửi. Từ màu mực và nét chữ có thể phán đoán số thư này được viết tại nhiều thời điểm khác nhau. Một vài chữ còn bị nhòe nước, chứng tỏ kẻ viết thư từng khóc khi lưu lại những dòng đầy tâm huyết này.
Tất cả đều là thư gửi cho Triệu Tiêm Tiêm.
Có thể trích ra một đoạn như sau:
Tiêm Tiêm! Mọi mật mã của anh đều là ngày sinh của em, từ trước đến nay luôn vậy và sau này sẽ mãi mãi là vậy. Vì em, anh đã giữ rất nhiều thói quen. Trước đây anh không thích ăn ô mai, lần đầu tiên nếm thử vị ô mai chính là lần em đưa cho anh, sau đó anh hình thành thói quen thích ăn ô mai. Thỉnh thoảng anh còn đi mua ô mai lúc nửa đêm. Những khi nhớ em, anh lại ăn ô mai.
Tóc em rất thơm. Để tìm được dầu gội đầu em dùng anh đã mua hết các nhãn hiệu và thử từng loại một, cuối cùng anh đã tìm thấy mùi hương của em. Vì mùi hương ấy khiến anh cảm nhận được sự tồn tại của em.
Anh bắt chước nét chữ của em, nét chữ của chúng ta dần dần hòa thành một.
Em đã bước vào cộc đời anh, đâu đâu quanh anh cũng có hình bóng em, em ẩn nấp trong từng ngóc ngách cuộc sống của anh. Khi anh làm những động tác tự nhiên nhất của thường nhật, trong từng cử chỉ, khi anh đi trên phố một mình, ăn cơm một mình xem tivi nột mình, khi anh ngồi một mình nhìn nước mưa thấm ướt lá cây ngoài cửa sổ, anh đều có cảm giác chúng ta đang ở bên nhau.
Tiêm Tiêm, em biết không? Mỗi lần đi cầu thang anh đều đi về phía bên tay vịn, vì lần cuối cùng em vai kề vai xuống cầu thang anh đúng phía tay vịn, còn em đứng cạnh anh.
Tiêm Tiêm, anh biết em có thói quen gấp chăn rất vuông vắn, bởi vậy ngày nào anh cũng học gấp chăn, bây giờ anh có thể gấp chăn vuông như miếng đậu phụ giống hệt anh lính gấp chăn trong doanh trại. Chỉ duy nhất một lần anh muốn từ bỏ, lần đó anh úp mặt xuống chăn khóc nức nở. Từ nhỏ đến lớn em đều kiên trì gấp chăn, vậy mà sao em không thể kiên trì yêu anh? Em đã từng yêu anh bao giờ chưa? Dẫu chỉ một phút một giây?
Anh dùng bao nhiêu cách để nhớ em, để nói chuyện với em, nhưng… chưa bao giờ em biết anh yêu em đến nhường nào!
Chắc em biết mỗi khi trời mưa, giữa không gian tĩnh lặng và u buồn đó, anh luôn nhớ em nhiều nhất.
Chắc em biết mỗi khi tuyết rơi, giữa không gian trầm mặc và cô đơn đó, anh luôn nhớ em nhiều nhất.
Chắc em biết anh lấy chìa khóa khắc rất nhiều chữ lên bức tường dưới tầng em ở, anh đợi ở đó cả đêm chỉ vì muốn thoáng nhìn thấy dáng em lúc đi học buổi sáng sớm. Em quàng khăn, mặc chiếc áo jacket nàu đỏ. Anh lặng lẽ đi theo em, chỉ vì muốn nhìn thấy em.
Anh đã từng đứng sau lưng em một cách chân thành như thế và nhìn theo bóng lưng yêu kiều của em. Mùa hè em thường mặc váy đỏ, khi tuyết rơi em mặc áo lông làu đỏ, em khép chặt vạt áo vào người cho ấm, rồi cứ thế cắm đầu bước một mạch về phía trước. Chỉ cần em quay đầu nhìn lại là sẽ thấy anh, nhưng chưa bao giờ em ngoái về phía sau. Anh muốn đuổi theo em biết bao nhiêu để ôm đôi tay lạnh giá của em vào lòng. Anh thích đứng trước cửa sổ lớp học ở tầng bốn, trong khi em ngây người ngắm cảnh thì anh ngây người ngắm em. Khi em rời đi, anh đứng vào chỗ em vừa đứng, nhìn về phía em đặt lòng bàn tay áp vào vị trí em vừa để tay lên đó. Anh luôn ở sau em, nhưng… em chưa bao giờ quay đầu lại.
Dẫu thời gian trôi như nước chảy nhưng màu của hoa hồng chưa bao giờ nhạt phai.
Mấy năm nay mưa đổ rào rào, chẳng khác gì bao nhiêu bể bơi trên thiên đình bị rơi vỡ xuống mặt đất, rồi biến mất không tăm tích, giống như nước mắt của anh rơi xuống vì em. em. Tiêm Tiêm, em có biết anh đã rơi bao nhiêu nước mắt vì em không?
Anh lấy lọ để đựng nước mắt của mình, lấy lồng ngực để đựng những lời thở than.
Tình yêu của anh còn sâu hơn cả đáy biển sâu nhất. Nếu em chịu nhìn anh dù chỉ một thoáng thôi em sẽ thấy vực thẳm, thấy cá bơi lội trong mắt anh. Thể xác của em nằm bên cạnh anh hết ngày này sang ngày khác, hết đêm này sang đêm khác, mộ địa của em và tang lễ của em đều ở trong vòng tay anh.
Anh đuổi theo con bướm em từng đuổi, cúi đầu ngửi bông hoa em từng ngửi.
Anh đi qua con phố em từng đi, quanh quẩn nơi ngã ba em từng tha thẩn, quẩn quanh.
Anh yêu em đến mức yêu luôn cả quần áo em mặc!
Anh yêu em đến mức yêu luôn cả chiếc váy em mặc!
Anh yêu em đến mức anh muốn biến thành em!
Em không biết anh thích cảm giác ngủ dưới gầm giường của em đến mức nào đâu! Khi mặc quần tất của em, anh thấy rất xấu hổ? Lần đầu tiên mặc quần tất đi trên phố là một ngày mùa đông, anh đã rất hồi hộp bên ngoài quần tất là quần đông xuân và quần len, bởi vậy chẳng ai nhận ra anh mặc quần tất. Anh thích cảm giác ấy. Cuối cùng anh cũng dám mặc váy ra đường vào một ngày hè. Anh đã biến thành em! Ngay cả anh cũng không thể nhận ra chính mình.
Mỗi sáng khi rửa mặt, anh lại ngây dại hôn bản thân mình đắm đuối qua gương.
Không phải anh đang hôn tấm gương mà là đang hôn em.
Em đã biết anh yêu em đến nhường nào chưa?
Bức thư cũ kĩ đã ố vàng. Mỗi lá thư đều nặng tình như thế! Mỗi lá thư đều biến thái như thế!
Trong phòng phủ lớp bụi dày, Tô My và Bao Triển phát hiện một thi thể nằm trên giường cạnh bàn học, thi thể đang trong tư thế nằm nghiêng, đầu gá trên gối, bên cạnh còn đặt một chiếc gối nữa, có thể thấy từng có người đã ôm thi thể này ngủ.