Nam Quốc Sơn Hà
Chương 8 : Chữ nhân của nho
Ngày đăng: 09:01 19/04/20
Hôm ấy là ngày mười tư, suốt ngày Yến-Loan cứ nghĩ đến Dương Tông, nghĩ đến những lời nói của anh ta. Lát, lát nàng lại nhìn bóng mặt trời, rồi mong cho chóng tối để gặp y. Sau cơm chiều, nàng mặc chiếc quần lụa đen, chiếc áo nhuộm mầu hoa cà, dây lưng mầu thiên lý, rồi xức tý nước hoa hương nhài, thủng thỉnh tới chỗ gặp gỡ hôm trước. Tự nhiên nàng nảy ra ý núp vào bụi cây, để rình xem anh chàng Dương Tông đến như thế nào. Nghĩ là làm. Nàng tung mình lên cây ổi gần đó, rồi ẩn thân vào mấy cành rậm rạp, hướng mắt về phía góc vườn bên Ðông.
Khoảng hơn khắc sau, có hai con ngựa từ phía Bắc đi tới, rồi ngừng lại ở ngoài cổng làng. Hai kị mã xuống ngựa, đến trước cổng. Hoàng nam gác cổng như quen thuộc, vội mở cổng, dắt cương ngựa cho hai người. Hai người phi thân rất nhanh, tới dinh Thái-hà, thì một người đứng ngoài, một người tung mình vượt qua tường vào trong. Yến-Loan nhìn rõ, người ấy là Dương Tông. Dương Tông tới chỗ dàn hoa thiên lý không thấy Minh-Ðệ. Y đưa mắt tìm tòi. Tìm không thấy nàng, y thở dài, rồi ngồi xuống ghế chờ đợi. Yến-Loan nghĩ thầm:
– Người này tung mình nhảy qua tường bằng thức khinh thân của phái Tản-viên, rồi phi thân tới đây. Nội lực y hơi giống nội lực Mê-linh của mình. Thì ra y là một đại cao thủ mà mình không hay. Mình phải cẩn thận mới được.
Nghĩ vậy, nàng tiếp tục ẩn thân. Còn Dương Tông thì chờ hơn khắc, rồi không giữ được bình tĩnh, y băng mình về phía dinh Thái-hà. Minh-Ðệ vội buông mình xuống đất theo sát phía sau. Dương Tông tỏ ra thông thạo đường lối, y đẩy cửa vào phòng khách, ghé tai vào cửa phòng nàng nghe ngóng. Dường như y biết trong phòng không khóa, nên đẩy cửa bước vào. Ngọn đèn lờ mờ trong phòng nàng do Phương-Lý thắp hồi chiều vẫn còn sáng. Dương Tông đưa mắt nhìn khắp phòng. Y tần ngần nhìn đám quần áo của nàng để ở đầu dường một lúc, rồi không hiểu nghĩ sao, y cầm lấy cái khăn choàng cổ đưa lên miệng hít lấy hít để, sau đó y bỏ vào túi.
Dương Tông lại tần ngần, ngắm nhìn quần áo của nàng treo trên bướm. Y cầm lấy cái áo cánh, đưa ra trước đèn ngắm nhìn, hồn vía như bay lạc phương nào. Ngắm một lúc, Dương Tông ngồi xuống lấy bút mài mực, rồi viết vào cái áo mầu hoàng yến của nàng ba bài thơ. Viết xong, y treo áo trở lại chỗ cũ.
Dương Tông trở ra phòng khách, rồi lần mò lại dàn thiên lý. Yến-Loan làm như không biết gì về hành tung của y. Nàng thư thả đi tới. Dương Tông thấy nàng thì hiện ra nét vui mừng:
– Yến-Loan. Trời ơi, tôi tưởng Yến-Loan không tới được chứ. Tôi lo lắng quá.
Yến-Loan thấy Dương Tông gọi mình bằng tên, rồi luống cuống, thì cảm động vô cùng. Nàng cũng đứng ngây người ra nhìn y. Lát sau mới nói:
– Anh... anh nói dối người ta.
Dương Tông hoảng hốt:
– Ngu huynh nói dối muội hồi nào dâu?
Yến-Loan thấy y lại xưng là huynh mà không xưng tôi, nàng ngồi xuống ghế cạnh y:
– Võ công anh cao như thế, mà anh bảo rằng anh là Nho-sinh. Thực thà thế đấy!
– Sao, sao muội biết võ công huynh cao?
– Anh... anh khinh người ta là đứa con gái nhà quê, nên mới nói dối như thế. Thử hỏi, nếu võ công anh thấp, thì sao anh có thể tung mình qua bức tường cao hơn trượng mà vào đây? Võ công anh không cao, thì sao anh vượt qua mấy chỗ đất lún, mà giầy không lấm đất?
Dương Tông cười xòa:
– Anh quả là Nho-sinh, nhưng biết chút ít võ nghệ mà thôi. Anh nghĩ mình biết tý võ mà đem ra khoe thì chẳng ích lợi gì, nên không nói, chứ có phải dối trá đâu. Hôm nay anh mang tới tặng em mấy món quà mọn, mong rằng em không chê.
Một lần nữa Dương Tông lại đổi cách xưng hô. Y không huynh, muội, mà dùng tiếng bình dân anh, em, khiến Minh-Ðệ bàng hoàng cả người. Thế rồi y đưa ra một hộp bằng vàng, trên có khắc hình hai con rồng tranh châu, trong bọc lớp gấm, hai tay trịnh trọng trao cho Minh-Ðệ:
– Chút quà mọn gọi là lễ diện kiến, mong Yến-Loan nhận cho.
Nếu Minh-Ðệ thông thế tục, thì biết rằng đây là lối tỏ tình của Dương Tông. Nhưng nàng không biết gì cả, nên hai tay đỡ lấy rồi cầm lên xem. Trong hộp nào son Hàng-châu, phấn Tô-châu, nước hoa Trường-sa, lại có cả hai chiếc vòng ngọc bích, với con phượng bằng vàng nạm chín hạt kim cương. Từ bé, Minh-Ðệ chưa từng thấy ngọc, cũng như kim cương bao giờ. Nàng cầm ngọc mà tưởng là đá xanh, cầm kim cương mà tưởng là mảnh chai. Nàng cảm động nới với y:
– Anh đã cho thuốc Yến-Loan, lại còn cho quà nhiều thế này sao? Yến-Loan chẳng có gì tặng anh cả.
Chợt nhớ ra việc Dương Tông cầm khăn quàng cổ mình mà hít lấy, hít để. Yến-Loan cởi chiếc khăn lụa trên cổ trao cho y:
– Yến-Loan tặng anh đấy.
Mắt Dương Tông sáng lên, y cầm lấy chiếc khăn gấp làm tám, ấp vào ngực một lát rồi bỏ túi. Hai người nói chuyện trời, chuyện đất đến gần nửa đêm thì Dương Tông từ biệt ra về.
Yến-Loan trở về phòng, lấy cái áo mầu hoàng yến ra xem, bất giác tay nàng run run, trống ngực đập liên hồi. Vì trên đó Dương Tông đã đề bài Thanh-bình điệu của Lý Bạch lên:
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng.
Nhược phi Quần-ngọc (1) sơn đầu kiến,
Hội hướng Dao-đài (2) nguyệt hạ phùng.(3)
Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,
Vân-vũ Vu-sơn (4) uổng đoạn trường.
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự?
Khả lân Phi-yến (5) ỷ tân trang.
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Trường đắc quân vương đới tiếu khan.
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm-hương đình bắc ỷ lan can.
Ghi chú,
(1) Quần-ngọc, theo thần thoại Trung-quốc, đây là nơi Tây-vương mẫu ở.
(2) Dao-đài, cũng theo thần thoại Trung-quốc, là nơi chư tiên ở.
(3) Trần-trọng-San dịch:
Mặt tưởng là hoa, áo tưởng mây,
Hiên sương phơ phất gió xuân bay.
Nếu không gặp gỡ trên Quần-ngọc,
Dưới nguyệt Dao-đài sẽ gặp ai?
Một nhánh hồng tươi móc đọng sương,
Mây mưa Vu giáp uổng sầu thương.
Hỏi trong cung Hán, ai người giống,
Phi-Yến còn nhờ mới điểm trang.
Hoa trời sắc nước cả hai vui,
Luôn được quân vương ngắm nghía cười.
Mối hận gió xuân bay thoảng hết,
Bên đình nàng đứng tựa hiên chơi.
(Trích trong tập Lý-Bạch, Ðỗ-Phủ, Bạch-cư-Dịcủa Trần-trọng-San, Bắc-Ðẩu Canada xuất bản).
(4) Vu-sơn, tên núi ở phía Ðông tỉnh Tứ-xuyên. Tương truyền Sở Tương-vương đi chơi đến đất Cao-Dương nằm mơ thấy một thiếu phụ nói: "Thiếp là thần nữ ở núi Vu-sơn, sớm làm mây, tối làm mưa ở Dương-đài". Vì vậy chữ Vu-sơn sau để chỉ tình dục (Sexology). Khi tôi viết bộ Sexologie médicale Chinoise, rồi chuyển trở lại tiếng Việt là "Trung-quốc Vu-sơn học".
(5) Phi-Yến, tức Triệu Phi-Yến, hoàng hậu của vua Thành-đế nhà Hán. Thành-đế băng, con là Ai-đế lên nối ngôi, bà được phong làm hoàng-thái hậu. Ðời Hán Bình-đế, Vương Mãng chuyên quyền, bà bị biếm làm thường dân rồi tự sát.
Yến-Loan đã đọc thiên kinh vạn quyển, trong ba đại thi hào đời Ðường là Lý Bạch, Ðỗ Phủ, Bạch Cư-Dị; nàng không thích thơ Lý, vì Lý xuất thế. Trong khi nàng là người mơ tưởng làm chuyện kinh thiên động địa như vua Trưng, như Thánh-Thiên, như Lệ-hải bà vương Triệu Thị Trinh. Vì vậy tuy nàng hiểu ý tứ ba bài thơ trên, ngụ ý Dương Tông ca tụng sắc đẹp của nàng, mà không hiểu về xuất xứ của nó ra sao.
Nguyên vào niên hiệu Khai-nguyên, đời Ðường Minh-Hoàng. Nhân lúc hoa thược dược nở rực rỡ muôn mầu. Nhà vua cùng Dương quý-phi họp một số đệ tử của Lê-viên thưởng hoa. Khi Lý Quy-Niên định hát, vua phán: "Thưởng danh hoa, trước Phi-tử, thì dùng chi đến lời nhạc này?" Rồi sai Quy-Niên đi triệu Hàn-lâm học-sĩ Lý Bạch. Lý Bạch tới, cầm bút viết một hơi ba bài này để ca tụng sắc đẹp Dương quý-phi.
Yến-Loan lại uống thuốc ngủ qua đêm.
Yến-Loan qua một đêm với giấc ngủ yên tĩnh. Hôm sau Thường-Kiệt trở về vào lúc trời chập choạng tối, ông hỏi vú Dư:
– Má má ơi, ở nhà có chuyện gì lạ không?
– Thưa thái-bảo vẫn bình thường.
Ông hỏi Yến-Loan:
– Sư huynh đi vắng, muội muội ở nhà chắc buồn lắm nhỉ?
– Cũng không buồn lắm đâu, vì sư huynh có nhiều sách quá, đọc hoài, đọc mãi mà không hết. Giá sư huynh mượn tiểu muội làm con bé lau chùi, dọn dẹp thư phòng cho sư huynh thì tiểu muội hạnh phúc biết bao?
– Vậy thì huynh mời sư muội làm đại tiểu thư ở trang này, để sư muội đọc hết đám sách của huynh. Sau đó sư muội giả trai ứng thí, không thành trạng-nguyên, cũng thành thám-hoa, rồi vào tòa Bình-cương làm Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử. Tiếc quá!
– Huynh tiếc gì vậy?
– Huynh tiếc vì nước mình chưa mở khoa thi, thành ra người dân không có dịp tiến thân. Trường hợp sư muội mà ở vào thời loạn như thời Lĩnh-Nam, cam đoan sư muội sẽ là một Thánh-Thiên.
Mấy tháng qua Yến-Loan đã đọc đi đọc lại đến thuộc lầu hầu hết sách-sử Hoa-Việt liên quan đến hai nước. Nay nghe Thường-Kiệt nói, nàng lắc đầu:
– Ðất nước mình có bao giờ mà không loạn lạc đâu? Nguyên do cái loạn này là ở những gã văn gia cổ thời, tạo cho mọi người Hán đều nghĩ vua mình, tướng mình là người nhà trời. Các dân xung quanh là di, man, địch, nhung cả, cho nên họ luôn luôn nhìn sang các lân bang, hễ có sự là bàn đem quân sang xâm chiếm. Thời Thuận-Thiên, Ðại-Việt mình mạnh đến như vậy, mà họ còn kiếm đủ cách gây chiến. Rồi đến thời vua Thái-tông, Khai-Quốc vương phải khích cho tộc Nùng nổi dậy, chiếm lưỡng Quảng, làm cho Tống yếu đi, họ mới để mình yên. Mới đây, họ lại gây hấn, chính sư huynh phải mang quân lên trợ vua Bà đánh sang để thị uy, đập cho họ kinh hãi, nay tuy có yên, nhưng chỉ là tạm thời. Sư huynh nghĩ xem, em có thể lên Bắc-cương theo vua Bà đánh giặc không?
– Ðược chứ. Sư muội mà lên đó, chỉ cần gặp một trong Ngũ-long công chúa tổng trấn Bắc-cương là được trọng dụng làm đại tướng ngay.
– Ủa, mình có đến năm công chúa trấn Bắc sao?
– Ðúng thế. Lúc đầu thì Ngũ-long công chúa là Bảo-Hòa, Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh, Thanh-Nguyên. Sau thì Ngũ-long đổi thành Kim-Thành, Trường-Ninh, Thanh-Nguyên, Thanh-Trúc, Phương-Hồng.
– Sao lại có vụ gạt công chúa Bảo-Hòa với Bình-Dương ra ngoài vậy?
– Ðâu có gạt. Nguyên do, khởi thủy, dân chúng tôn năm vị ấy là Ngũ-long; kể về vai vế thì sư phụ của anh là công chúa Bảo-Hòa đứng đầu. Ðệ nhị công chúa là vua bà Bình-Dương. Nhưng sư phụ của anh thành tiên, thành thánh, còn công chúa Bình-Dương thành vua, địa vị cực cao không ai có thể sánh, nên dân chúng đem hai vị ấy ra khỏi Ngũ-long công chúa. Vì hai vị ra ngoài Ngũ-long, nên dân chúng mới thêm hai công chúa Thanh-Trúc, Phương-Hồng vào thay thế.
– Sư huynh nói rõ về nguồn gốc Ngũ-long cho muội nghe đi.
– Ðệ nhất là công chúa Kim-Thành tức phu nhân của Thái-tử thiếu phó, Phong-châu tiết độ sứ, Long-nhương đại tướng quân, Trung-nghĩa quốc công Lê Thuận-Tông.
– Ái chà, muội đọc trong Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự có kể việc Công chúa với Quốc công tiến quân đánh Quảng-châu những trận long trời lở đất. Thế đệ nhị công chúa?
– Là Công-chúa Trường-Ninh, phu nhân của ngài Thái-tử thiếu-sư, Thượng-oai tiết độ sứ, Hổ-uy đại tướng quân, Thuần-tín quốc công Hà Thiện-Lãm.
– Em cũng đọc sự tích Công-chúa với Quốc-công trong sách rồi. Thế Công-chúa thứ ba?
– Thứ ba là Công-chúa Côi-sơn Trần Thanh-Nguyên, phu nhân của ngài Trấn-bắc đại tướng quân, Tiên-yên tiết độ sứ, Tản-viên hầu Tôn Mạnh.
– Công chúa là con của đại thần nào vậy?
– Công chúa tuy không phải cành vàng lá ngọc, nhưng lại có thế lực cực kỳ lớn, người là con út của Thái-sư phụ Trần Tự-An, nức tiếng thiên hạ.
– Úi chà.
– Yến-Loan cười thầm:
– Tưởng ai, hóa ra sư tỷ con út của sư phụ mình, tức em gái của đại hiệp Trần Thông-Mai, vương phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai, và Kinh-Nam vương Tự-Mai.
Nàng hỏi tiếp:
– Thế còn công chúa thứ tư, thứ năm??
– Vị đệ tứ tên thực là Lâm Thanh-Trúc, tước phong công chúa Ôn-thuận, phu nhân của Ðại-tư-mã Bắc-biên, Hữu-kim ngô thượng tướng quân, Lạng-châu quốc-công Thân Thiệu-Cực. Thứ năm là công chúa Vạn-hoa, nhũ danh Ðào Phương-Hồng, nguyên người là Quận-chúa, ái nữ của công chúa An-Quốc với phò mã Ðào Cam-Mộc, sau vì có công nên được phong công chúa. Người là phu nhân của Bình-nam đại tướng quân, Khai-sơn hầu Tôn Trọng.
Yến-Loan nghĩ thầm:
– Những vị nữ lưu kia vì có tài, có công với đất nước, mà danh vang thiên hạ. Còn ta... văn học ta không thua ai, võ công ta không hèn. Dù nay ta đang bị tù đầy vì oan khuất, nhưng một mai ta cũng phải làm lên những việc như vua Trưng, như Lệ-Hải bà vương. Nhất định ta không chịu nát thân với cỏ cây; không chịu làm con ở trong nhà, để cho người chà đạp, muốn đánh là đánh, muốn giết là giết, muốn chửi là chửi.
Thế là chỉ trong một vài câu của Thường-Kiệt, đã làm cho Yến-Loan đang từ cô gái an phận, quê mùa, nảy ra hùng tâm tráng trí, khiến cho giang sơn Ðại-Tống nghiêng ngửa, với gần nửa triệu sinh linh Tống chết, tạo chiến tích huy hoàng nhất lịch sử tộc Việt. Ðó là chuyện sau.
Chợt nhớ lại những gì chép trong Thái-tông thực lục, nàng hỏi Thường-Kiệt:
– Sư huynh ơi, từ hôm gặp sư huynh đến giờ, muội muốn hỏi sư huynh một việc, song e đụng đến mối thương tâm của sư huynh, nên muội còn lưỡng lự. Bây giờ muội cả gan hỏi, nếu sư huynh có giận thì cứ coi muội là đứa con nít, mà bỏ qua cho.
Thường-Kiệt đã bị tĩnh thân, nên ông không úy kị nam nữ, ông ôm lấy đầu Yến-Loan:
– Cuộc đời huynh có gì bí mật đâu mà dấu diếm? Muội muốn hỏi gì huynh cũng trả lời hết. Huynh hiện quản Khu-mật viện, giữ hết cơ mật xã tắc, thế mà huynh đưa muội về đây ở, thì huynh phải tin muội lắm mới dám làm thế. Nào muội hỏi đi.
– Thế này.
Yến-Loan thỏ thẻ: Muội đọc trong sử thấy nói hồi trước huynh đã đính hôn với một thiếu nữ tên Tạ Thuần-Khanh, con gái Cổ-loa quốc-công Tạ Sơn. Giữa lúc chuẩn bị cưới xin, thì huynh bị gian nhân đánh thuốc mê, rồi đem tĩnh thân. Thế ai là thủ phạm hại sư huynh?
Thường-Kiệt đang vui vẻ, mặt ông sa sầm lại, hai hàm răng ông nghiến ken kẹt:
– Ðây là mối hận nhất đời của huynh. Sau khi huynh bị tĩnh thân, thì Ưng-sơn song hiệp, sư phụ Bảo-Hòa làm dữ lắm, đòi triều đình phải đem chính phạm tòng phạm ra xử ngay, bằng không người sẽ xử. Vua Thái-tông kinh hãi, nhờ Khai-Quốc vương điều tra. Sau khi tìm ra thủ phạm, Vương bàn với Ưng-sơn, với sư phụ anh không công bố tên thủ phạm. Cứ để tội y đấy như một án treo, bất cứ mình bảo gì, nói gì y cũng phải theo. Vì vậy cho đến nay chỉ Quốc-phụ, Quốc-mẫu, sư phụ, với Ưng-sơn song hiệp biết rõ thủ phạm là ai mà thôi. Huynh đã hỏi, nhưng các ngài không nói, vì sợ huynh giết ba họ nhà y, e người chết nhiều quá, mà huynh cũng có tội với triều đình.
Yến-Loan thề:
– Trọn đời muội, muội sẽ dùng hết khả năng để truy lùng thủ phạm hại sư huynh, và giết chết y thực thảm khốc.
– Ða tạ sư muội.
– Này anh em võ sĩ của Dương gia. Anh em còn nhớ vụ người nhà họ Dương bang bạnh ở bến Bắc-ngạn thời vua Thái-tông không? Kết quả hai mạng họ Dương chết thảm, mà hai vị Ðô-thống chỉ vì nghe lời họ Dương, rồi đi đến bị băm xương ở Tây-nhai. Các vị hãy nhìn gương cũ, để khỏi chết oan. Các vị nên nhớ Mộc-tồn hòa thượng đang ở rất gần các vị đấy.(13)
Ghi chú,
(13) Biến cố Bắc-ngạn xẩy ra như sau: Khai-Hoàng vương (nay là Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế) cùng với Lý Thường-Kiệt qua Bắc-ngạn Thăng-long thì gặp Dương-hồng-Hạc (Nay là Thượng-Dương hoàng hậu) cùng anh trai. Hai người hách dịch, bang bạnh ra lệnh cho hai đô thống Ðinh, Phùng bắt trói vương với Thường-Kiệt, việc vày đưa đến cha và anh của Hồng-Hạc là Dương Ðức-Uy, Dương Ðức-Thao bị Ưng-sơn song hiệp giết chết. Xin đọc Anh linh thần võ tộc Việt cùng tác giả. Nghe Ðỗ Oanh nói, viên lĩnh đội võ sĩ nói với Ðức-Huy:
– Thưa công tử, tiểu nhân đề nghị công tử đưa những người này về phủ thừa Thăng-long, để quan phủ Thăng-long phát lạc. Khi họ chưa có tội rõ ràng, thì ta chẳng nên trói họ.
Dương Tông quay lại nói với Yến-Loan:
– Muội muội ngồi đây chờ ta một lát nghe.
Rồi chàng cùng Ðỗ Oanh khoan thai đi với bọn võ sĩ xuống dưới nhà.
Nghe Dương Tông dặn, Yến-Loan ngồi yên trong phòng chờ tin tức. Ðể giết thời giờ, Yến-Loan lấy bộ Luận-ngữ cùng bộ Kinh-thi trong túi ra đọc. Thời gian không biết bao nhiêu lâu, Yến-Loan đã đọc hết bộ Luận-ngữ, mà vẫn chưa thấy hai người về. Chợt tửu bảo chạy lên nói với nàng:
– Này chị, xin chị ra đường đứng chờ mấy vị đi cùng. Tôi phải dọn phòng này cho quý khách.
Yến-Loan đứng lên xuống dưới nhà. Sốt ruột nàng nghĩ thầm:
– Âu là ta đến phủ thừa Thăng-long dò la tin tức xem sao.
Nàng móc túi cho tửu bảo mấy đồng tiền rồi hỏi nó:
– Chú em, chú có biết phủ thừa Thăng-long với dinh Tể-tướng ở đâu không?
– Biết chứ, kìa chị cứ đi theo con đường trước tửu lầu khoảng nửa dặm, rồi quẹo sang trái, chị sẽ thấy một dinh thự đồ sộ, đó là phủ đệ của Dương tể tướng, gần đấy, chỗ có cây đề là phủ thừa Thăng-long.
Từ Anh-hùng tửu lâu đến dinh Tể tướng không xa cho lắm. Khoảng hơn khắc sau nàng đã tìm thấy phủ đệ Gia-viễn quốc-công. Gần đó là phủ thừa Thăng-long. Yến-Loan đi đi, lại lại ở phía ngoài hàng rào. Gần một giờ sau vẫn không có tin tức Dương Tông. Thấy một tên võ sĩ trong bọn ban nãy đi ra, nàng hỏi y:
– Này anh, việc ấy ra sao rồi?
Tên võ sĩ cười nhạt:
– Cô có phải là vợ của một trong hai tên ấy, thì về sắm quan quách đi là vừa. Tể-tướng truyền giam cả hai tên lại, rồi ngày mai đem chém về tội giết người cùng làm loạn kinh đô.
– Thực vậy sao?
– Chứ không thực ư? Tôi nói dối cô làm gì? Tể tướng đã lên án trảm quyết y. Mai sớm thì thi hành. Thôi cô về sắm sửa quan quách đi cho kịp. Tôi nói cho cô biết, đó là hai tên gian tế của Tống để làm nội ứng khi Tống đánh sang mình. Cô hiểu luật Ðại-Việt rồi đó, bất cứ kẻ nào làm gian tế cho Tống, thì quan võ từ cấp thiên-tướng, quan văn từ chức tri phủ đều có quyền trảm đầu, sau mới tâu về triều.
Nói xong y bỏ đi.
Yến-Loan kinh hoàng, choáng váng mặt mày, nàng ôm đầu bỏ chạy biến vào đêm tối. Thình lình nàng đâm sầm vào một người. Cả nàng và người ấy đều bật lui hai bước. Nàng kinh hãi, nhìn lại xem kẻ bị mình đụng phải là ai? Nàng giật mình, vì đó chính là Khất hoà thượng. Nàng vội cung tay:
– A-di-Ðà Phật. Xin Phật giá sư phụ tha cho đệ tử. Vì hoang mang, vì hoảng sợ, đệ tử đụng phải đại giá sư phụ.
Khất hoà-thượng cười rất tươi:
– Chính ta phải tạ lỗi với thí chủ mới phải, vì chính ta đụng phải thí chủ mà. Ta có lỗi. Lỗi tại ta.
Ông chỉ vào tảng đá gần đó, rồi nói như ra lệnh:
– Thí chủ ngồi đó đi!
Không đừng được, Yến-Loan ngồi lên tảng đá. Khất hoà-thượng nhìn nàng từ đầu đến chân, rồi nói:
– Thí chủ ơi! Ta thấy mắt thí chủ lờ đờ, trán dăn lại, tâm hồn hốt hoảng... Thì ra thí chủ đang có điều lo sợ phải không?
– Bạch thầy vâng. Con có người bạn bị bắt giam, sáng mai đem ra chém. Vì vậy con kinh sợ.
– Kinh sợ. Thí chủ kinh sợ thì ích gì? Này thí chủ ơi, con người ta sinh ra vốn trần truồng. Nếu nay người thân của thí chủ có chết cũng còn manh áo trên người, thì vẫn là lời chán mà. Thôi, đây bần tăng tặng cho thí chủ mấy viên thuốc. Thí chủ uống vào, nhất định tâm thần bớt hoảng hốt ngay.
Yến-Loan cung tay lĩnh tám viên thuốc bỏ vào miệng nuốt đi. Nàng hỏi:
– Bạch thầy thuốc này tên là gì vậy?
– Thuốc do bần tăng chế ra, nó gọi là "Ðịnh tâm hoàn", dùng để trấn tĩnh nỗi lo lắng, phiền não. Nó cũng dùng để trị chứng mất trí nhớ. Như người già hay quên, học trò học thi. Bần tăng có thể tóm lược bằng câu này: "Kiên thần, trấn tĩnh, an miên, ích trí". Nghĩa là giúp người ta vững lòng khi bị đe dọa, khi bị hành hạ tâm thần, ngủ ngon và ích trí nhớ. (14).
Ghi chú,
(14) Ðịnh tâm hoàn
Phương thuốc rất cổ, lưu truyền tới ngày nay. Chúng tôi thường dùng với tên "Kiên não định thần hoàn", rất hữu hiệu.
Dưới đây tôi ghi thành phần, cạnh ghi thêm tiếng La-tinh, để quý đồng nghiệp dễ tra cứu:
Ðương-quy (Angelica sinenis) 10%
Táo-nhân (Semen zizyphi) 16%
Thung-dung (Caulis cistanchis) 8%
Bách-tử-nhân (Semen biotae) 6%
Thiên-ma (Rhizoma gastrodiae 4%
Viễn-chí nhục (Polygala) 4%
Hồ-đào nhân (Walnut Kernels) 8%
Ðởm Nam-tinh (Bile rhizoma arisaematis) 4%
Xương-bồ (Rhizoma calami) 4%
Cam kỷ-tử (Fructus lychii) 8%
Hổ-phách (Succinum) 4%
Long-xỉ (Fossilia dentis mastodi) 4%
Ngũ-vị tử (Fructus schizandae) 20%.
Cộng 13 vị, chế thành tễ, hoặc viên nhỏ.
Hiệu-năng, chủ trị:
- Kiên não (Ðầu óc hoang mang, lo nghĩ vẩn vơ, sở hãi vô lý hoặc có lý)
– Trấn-tĩnh (Kinh hãi, bị đe dọa, bị khủng bố tinh thần, lo nghĩ trước khi thi, hoặc sắp phải đối diện với những khó khăn).
– An miên (Giúp cho ngủ ngon. Nhưng đây không phải là thuốc ngủ).
– Ích-trí (Bồi bổ trí nhớ. Người già hay quên. Sau khi bệnh mất trí nhớ. Giúp sinh viên, học sinh học bài mau thuộc, nhớ lâu).
Dụng pháp, dụng lượng:
Dùng thêm mật ong chế thành viên nhỏ, hoặc tễ.
– Người già hoặc người bệnh mất trí nhớ, sinh viên học thi: ngày ba lần, mỗi lần 3g.
– Thần kinh suy nhược: sáng 4,5g. Trưa 4,5g. Chiều 6g.
– Trấn-tĩnh: ngày 3 lần, mỗi lần 6g.
Cấm-kỵ:
Không. Dùng lâu không hại.
Dường như thuốc đã ngấm, Yến-Loan cảm thấy trong người khoan khoái kỳ lạ. Nàng chắp tay vái nhà sư:
– Ða tạ thầy bố thí. Nhưng con vẫn lo.
– Thôi được, để bần tăng coi cho thí chủ một quẻ bói xem hung cát thế nào nghe!
Yến-Loan mừng quá chắp tay:
– Dạ, dạ. Xin thầy xem cho con ngay.
– Thế thí chủ sinh giờ, ngày, tháng năm nào?
– Bạch thầy con sinh ngày 30 tháng năm, năm Ất-Dậu, giờ Thìn.
Nhà sư bấm tay tính toán một lúc rồi nói:
– Bần tăng coi Tử-vi cho thí chủ. Vậy thí chủ trả tiền đi chứ?
Yến-Loan móc trong túi không còn đồng nào, nàng luống cuống chưa biết trả lời sao, thì nhà sư đã nói:
– Thôi. Khỏi cần trả bây giờ. Sau này trả cũng chưa muộn.
Nhà sư lại tính toán một lúc rồi nói:
– Chà, số của thí chủ tốt quá. Mệnh thí chủ lập tại Dần; Thiên-đồng, Thiên-lương thủ mệnh. Thiên-đồng là phúc tinh, Thiên-lương là ấm-tinh, nên thí chủ sinh ra tâm tính lương thuần, thích đem của mình cho người, lòng luôn hòa hoãn. Ðã vậy còn được Hoá-quyền phụ trợ, nên học một biết mười, bút mặc văn chương hiếm có, võ công lại cao thâm khôn lường. Vì sinh tháng năm, giờ Thìn, hội đủ Tả, Hữu, Xương, Khúc chiếu cho nên sau này sự nghiệp của thí chủ vĩ đại vô cùng.
– Thưa thầy liệu con có được như công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh không?
– Hơn nhiều.
– Bằng vua bà Bình-Dương, tiên-cô Bảo-Hòa chăng?
– Hơn nữa.
– Bằng công chúa Thánh-Thiên, Phùng Vĩnh-Hoa không?
– Cao hơn bậc nữa.
– Thưa thầy còn ai đâu?
– Sự nghiệp của thí chủ chỉ nhường vua Trưng mà thôi.
– Thầy có dậy quá không?
– Ðược! Thí chủ nhớ nhé, sau này nếu sự nghiệp thí chủ quả như bần tăng đoán, thì thí chủ phải làm bẩy mươi hai ngôi chùa để trả nợ đấy nhé.
– Bạch thầy con không quên đâu.
Quả nhiên sau này Yến-Loan lên làm Linh-Nhân hoàng thái hậu, cầm quyền cai trị Ðại-Việt; bà nhớ lại lời nguyện xưa, bỏ tiền riêng xây 72 ngôi chùa. Lại có thuyết nói rằng: bà xây 72 ngôi chùa để xám hối việc bức tử Thượng-Dương thái hậu cùng 72 cung nữ. Cũng có thể việc xây chùa này gốc ở cả hai thuyết trên.
– Cung huynh đệ của thí chủ có Thiên-hình. Thiên-hình là hung tinh, hóa hình là thanh kiếm, chủ chém giết. Thời thơ ấu thí chủ bị em đánh đập khổ sở, có lần giết thí chủ, mà thí chủ vẫn thoát chết.
– Dạ đúng ạ.
– Cung phụ mẫu có Vũ-khúc, Thất-sát, vốn xấu, lại còn thêm Ðịa-kiếp nữa, thì thí chủ bị mẹ coi như kẻ thù, luôn tìm cách hại thí chủ. Dù thí chủ vô tội, nếu như có ai đâm chém thí chủ thì bà sướng lắm.
– Dạ đúng ạ.
– Ðại hạn thứ nhất ở cung Mão, ngộ Vũ, Sát, Kiếp, thì ôi thôi, suốt thời gian từ lúc sinh ra (1045) đến năm mười lăm tuổi (1045-1059), thí chủ sống như tôi đòi, như trâu, như chó. Dù thí chủ muốn sống đã không nổi, mà muốn chết cũng không xong.
– Dạ, đúng ạ.
– Từ năm mười lăm tuổi, đại hạn sang cung Thìn ngộ Thái-dương miếu địa, cuộc đời thí chủ bắt đầu thay đổi. Thí chủ được gặp đại quý nhân thu làm đệ tử. Cái khổ dần bớt đi. Nhưng năm mười sáu tuổi, năm Canh-Tý (1060) tiểu hạn ngộ Vũ, Sát, Kiếp. Lưu Thái-tuế ngộ Cự-môn, lưu Tang-môn nhập mệnh. Cự-môn chủ miệng lưỡi, Tang-môn chủ tàn phá; nên bị vu hãm, bị tù đầy. Năm nay, tiểu hạn nhập cung Sửu, ngộ Thiên-tướng, Ðịa-kiếp, thì xấu tốt lẫn lộn. Ðầu năm bị vu hãm, nhưng không sao. Bởi đại hạn có Thái-dương, tiểu hạn có Thiên-tướng, Long-trì, Phượng-các đều bất kị Thiên-hình, Ðịa-kiếp. Như vậy thí chủ thanh vân đắc lộ, sẽ gặp ý trung nhân, rồi được đại quý nhân chí tôn phối ngự. Từ nay, thênh thang đại mệnh phụ, cao sang tột đỉnh.
– Thưa thầy...
Nhà sư chỉ phía trước:
– Kìa thí chủ nhìn kìa.
Yến-Loan nhìn theo tay nhà sư, nhưng không thấy có sự gì lạ. Nàng hỏi:
– Thưa thầy...
Nhưng nhà sư đã biến đâu mất, chỉ còn bóng đêm che phủ mà thôi