Ngược Về Thời Minh
Chương 108 : Suýt rơi vào bẫy
Ngày đăng: 13:22 30/04/20
Đồng Quán là một trong số "Lục tặc" thời Bắc Tống (1). Dương Phương nói Hán Linh đế tin sủng Thập thường thị, Lương Vũ đế mê tín đạo Phật, đều không hề nêu ra danh tính của bọn gian nịnh đó, duy chỉ khi nhắc đến thời Tống Huy tông thì mới nêu đích danh ra, lại còn đem đặt đại tướng quân Đồng Quán lên trước quyền tướng Thái Kinh, rõ ràng là có ngụ ý. Các võ tướng “dốt nát ngây ngô” nghe không hiểu, nhưng các quan văn đã sớm to nhỏ thì thầm ở bên dưới.
Dương Phương thấy mình khổ tâm một phen mà Hoàng Đế Chính Đức lại không hiểu ý, nên cũng không cố dùng lời ám dụ nữa, đành phải quỳ xuống tâu:
- Đọc sử chính là để răn dạy người sau, Hoàng Thượng nên thông hiểu đạo đức văn chương, chăm thờ quang minh chính nghĩa, kính thiện trọng đức, báo đáp công ơn, thì dù có chắp tay giũ áo (bỏ mặc không làm gì) mà vẫn khiến thiên hạ vẫn thái bình. Giờ đây Hoàng Thượng ham mê bắn cung, cưỡi ngựa, xao nhãng đọc sách. Nghe nói Hoàng Thượng đã nhiều lần tự ý rời khỏi hoàng cung đi Tây giao (ngoại thành phía tây) xem võ. Cứ trầm mê vào những trò vặt này thì không phải là việc làm của một vị vua tài đức đâu.
Dương Phương vừa dứt lời, trên điện chợt có một giọng nói ung dung cất lên:
- Hoá ra ham mê bắn cung cưỡi ngựa thì không phải là quân vương tài đức. Đại nhân đọc sách sử thật hay! À, hoá ra vua Tần và Hán Vũ cho diễn võ trong cấm cung, mở mang bờ cõi, đều không phải là những vị vua tài đức sao?
Dương Phương liền xoay người, thấy kẻ đáp lời là Dương Lăng thì lập tức nói ngay:
- Khổng Tử nói:...
Dương Lăng lại nghe là "Tử viết (Khổng Tử nói)(*)" thì lập tức cướp lời luôn:
- Tử viết “Ngươi đừng có nói, câu nào cũng đều là dùng của ta hết.”
(*)Viết: từ cổ, nghĩa là nói.
- Ha ha ha ha...!
Lần này không những đám võ tướng không quản Hoàng Thượng đang ngồi trên, buột miệng lớn tiếng cười vang, thậm chí rất nhiều quan văn cũng không nhịn được mà che miệng cười. Về sau bọn võ tướng lấy câu "danh ngôn" này của Dương Lăng làm vũ khí có tính sát thương hữu hiệu để đối phó với quan văn, khiến cho một nửa số quan văn thường ngày luôn dùng "Tử viết" đành nghẹn họng, trợn trắng cả mắt.
Lý Đông Dương vội ho khan vài tiếng, giấu vẻ buồn cười, nghiêm giọng:
- Dương đại nhân! Trên triều đường, trước mặt Hoàng Thượng, không thể đem thánh nhân ra làm trò đùa!
Dương Lăng lia mắt nhìn, quả nhiên thấy rất nhiều quan văn đang vô cùng tức giận, bất mãn, liền quay sang Lý đại học sỹ cười nói:
- Đại học sỹ thứ tội! Hạ quan chỉ cảm thấy thời của Khổng thánh nhân là từ thời Xuân Thu chiến quốc. Bố cục, tình thế, nhân văn, triều chính và kinh tế của các nước thời ấy so với hiện tại hoàn toàn bất đồng. Qua nghìn năm bể dâu, người và vật đều đã không còn. Thánh nhân dạy mọi người "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín", tất nhiên lúc nào cũng đúng, thiên thu không đổi. Nhưng quan điểm và nhận định của thánh nhân đối với triều chính lại chỉ nhắm vào nền chính trị đương thời. Nếu như người thời nay cứ trích dẫn lung tung, khăng khăng không sửa đổi, giả danh thánh hiền để nói xàm nói bậy, chẳng những sẽ hại nước hại dân mà còn bôi nhọ danh dự thánh nhân.
Thật ra, chỉ cần bước ra làm quan, chân chính tách rời khỏi đám văn nhân ôm sách vở, các quan viên nhà ta khi thực thi triều chính đều đã sớm cảm thấy nếu chỉ dựa vào thành tích học tập thánh nhân sẽ không đủ để trị thiên hạ, nên "Nửa bộ Luận Ngữ trị thiên hạ" chẳng qua chỉ là câu nói "tự sướng" mà thôi. Các đại hiền thần đều xưng là môn đồ của Khổng - Mạnh, nhưng phương châm quản lý triều chính đã sớm bóp nặn theo học phái của Hoàng lão rồi (3). Bọn họ ngoài miệng thì nói chuyện xúc động lòng người, nhưng trong lòng cũng không tin chỉ bằng mấy câu lưu truyền của thánh nhân là đã có thể giải quyết hết thảy mọi vấn đề.
Chính vì vậy, sau khi nghe y giải thích xong, Lý Đông Dương không nói gì tiếp. Dương Lăng quay sang Dương Phương hỏi:
- Dương đại nhân nói chỉ cần thông thạo đạo đức văn chương thì có thể chắp tay giũ áo trị thiên hạ, còn diễn binh tập võ lại là trò vặt. Vậy hiện nay Miêu Cương gây loạn, Thát Đát như hổ đói rình mồi, đây là hoạ lớn trước mắt cả trong lẫn ngoài Đại Minh, phải chăng chỉ dựa vào giáo hoá thì có thể bình ổn? Chỉ trọng giáo hoá, không trọng dân sự, không trọng quân sự, quốc gia có thể ổn định lâu dài sao?
Dương Phương nghe vậy thì khinh thường đáp:
- Một đám lưu vong gây loạn bất quá chỉ là thứ bệnh ghẻ mà không phải là cái hoạ của xã tắc. Người Thát Đát cậy vào địa thế hiểm trở của man hoang, không hề có chí lớn, sao đáng để lo. Chuyện bé xé to, bất quá chỉ là lớn tiếng hù dọa mà thôi.
Dương Lăng vỗ tay, cười nói:
- Diệu thay! Dòng nước lũ Trần Thắng và Ngô Quảng chỉ là thứ bệnh ghẻ, bọn người man dã Nguyên Mông không đáng để lo. À! Hẳn là Đại Tống năm xưa đã có rất nhiều “hiền thần” có suy nghĩ như ngài đấy.
Dương Phương đỏ mặt, giận dữ nói:
- Trần Thắng, Ngô Quảng phản bội là do sự bạo ngược, vì bạo Tần không am hiểu việc giáo hoá, hà khắc với dân, nên dân chúng mới nhất hô bá ứng cùng nhau nổi dậy.
Dương Lăng vặn hỏi:
- Vậy nhà Nguyên diệt Tống thì sao? Người Nguyên là nước chính nghĩa sao? Người Nguyên không đáng để lo sao?
- A?
Thiên sư Trương Ngạn Thạc đang gập ngón tay trong ống tay áo bấm đốt, nghe thấy công chúa Vĩnh Phúc dò hỏi, vội đáp:
- Không! Đến ngày đại hôn của Hoàng Thượng, tiểu đạo sẽ lại vào cung cầu phúc, hôm nay đến kinh sư đã lập tức đến bái kiến Hoàng Thượng và Thái Hậu trước rồi. Tiểu đạo muốn nhân dịp đi đến phủ Thành quốc công thăm viếng.
Đại thiên sư thứ bốn mươi bảy là Trương Nguyên Khánh phụng thánh dụ cưới con gái của Thành quốc công, được khâm thưởng mãng bào (9) đai ngọc, bản thân đã là quốc sư, lại là hoàng thích. Vị tiểu thiên sư này là con một của Trương Nguyên Khánh, cháu ngoại của Thành quốc công, cho nên đã đến kinh sư đương nhiên y sẽ phải đi thăm ông ngoại một phen.
Công chúa Vĩnh Phúc duyên dáng cười nói:
- Nếu đã như vậy, bổn cung sẽ về vậy. Tiểu An Tử, tiễn quốc sư rời cung.
Hoằng Chiêm chân nhân chắp tay vái công chúa Vĩnh Phúc, rồi đi theo một thái giám ra ngoài. Tiểu đạo sĩ tên là Phù Bảo nọ chạy lên sánh vai với gã, nhỏ giọng nói:
- Ca ca! Huynh vừa mới bấm đốt tính gì vậy? Có phải là tướng mạo của tên Dương Lăng đó có chút cổ...?
Hoằng Chiêm chân nhân bất chợt dừng chân, bịt lấy miệng y, nghiêm mặt trừng mắt, thấp giọng mắng:
- Im miệng, hoạ từ miệng mà ra đó!
Y nhìn lướt tên tiểu thái giám ở đằng trước, thấy gã không chú ý, mới thở phào một hơi, đoạn bỏ tay ra nói:
- Về rồi hẵng nói! Muội còn tiếp tục gây chuyện, huynh sẽ không dẫn muội ra ngoài nữa đâu!
Nói rồi y vội vã đuổi theo tên tiểu thái giám đi về phía trước.
Phù Bảo đứng ngây ra, bấm đốt ngón tay một lát, gãi gãi đầu ra vẻ khó hiểu rồi bước vội đuổi theo.
***
Chú thích:
(1) chỉ lục đại gian thần những năm cuối Bắc Tống, bao gồm: Thái Kinh, Vương Phủ, Đồng Quán, Lương Sư Thành, Chu Miễn, Lý Bang Ngạn, trong đó Thái Kinh đứng đầu.
(2) nguyên văn "nhân vật lưỡng phi"
(3) học phái Hoàng lão (Hoàng lão chi học) xuất hiện vào giữa thời Chiến quốc, là một học phái của Tắc hạ học cung ở nước Tề, với đại biểu là "Lão tử", kết hợp đạo gia và pháp gia.
(4) Dương Lăng muốn nói đến trận Phì thủy (Phì thủy chi chiến), một trận đánh nổi tiếng, đại diện cho tình thế dùng quân số ít đại thắng đội quân đông hơn.
Xem thêm http://vi.wikipedia.org/wiki/Trận Phì Thủy
(5) tên của Chu Nguyên Chương thuở nhỏ
(6) xem hình để rõ thêm http://img8.zol.com.cn/bbs/upload/8484/8483619_0800.jpg (mất rồi!)
(7) trong tướng pháp, đàn bà mũi trái mật treo (huyền đảm tị) có tướng vượng phu ích tử, thành danh và có tài quyền. Ở đây ý chỉ mũi đẹp.
(8) theo tra cứu, vị này hẳn là Trương Ngạn Vũ (trên wiki ghi là Trương Ngạn Phiến, nhưng phiên âm là yu3, không phải shan, pian, hay fan phải đọc Vũ chứ nhỉ), tự Sĩ Chiêm (1490 - 1550). Năm 1501, được Minh Hiếu Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân. Năm 1526, được Minh Thế Tông gia phong là Chính Nhất Tự Giáo Hoài Huyền Bão Chân Dưỡng Tố Thủ Mặc Bảo Quang Lý Hoà Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân.
(9) một loại áo bào thêu con vật giống rồng nhưng chỉ bốn vuốt, kém rồng một vuốt. Xem hình http://a0.att.hudong.com/57/29/01300...98571535_s.jpg