Ngược Về Thời Minh

Chương 154 : Lợi ích trên hết

Ngày đăng: 13:22 30/04/20


Dương Lăng nằm trên giường, Cao Văn Tâm ngồi cạnh lau mặt cho y bằng khăn nóng. Dẫu sao thì y cũng mới tắm xong, hai má ửng đỏ, da dẻ hồng hào, nhìn thế nào cũng chẳng giống như đang “thoi thóp” nên đành phải giả bộ như vừa lấy khăn ấm lau mặt xong.



Tiêu Phương ngồi cạnh bàn, thủng thỉnh vuốt râu, miệng cười tủm tỉm, nếu không phải đôi lúc ông ta để lộ nụ cười gian xảo thì trông rất nhân từ. Vị nhân huynh này đã 71 tuổi rồi, nhưng ngũ quan vẫn còn tinh tường, râu tóc trắng như cước, thân thể khoẻ mạnh, tướng mạo đường đường.



Trên đường về kinh, trong lúc suy tính tìm người cử vào vị trí nhập các* Đại học sĩ, Dương Lăng cũng đã từng cân nhắc đến vị quan văn có quan hệ khá tốt với mình này. Vị Tiêu thị lang này đỗ tiến sĩ năm Thiên Thuận thứ tám, liên tục nhậm chức Thứ cát sĩ, Biên tu, Thị giảng, sau lại đến nơi khác làm Đồng tri, Tri châu, Đề học phó sứ, Thông chính, Thái thường thiếu sư, Hữu thị lang bộ Lễ, hiện làm đến Tả thị lang bộ Lại.



(* gia nhập vào Nội các, tham dự giải quyết những sự vụ quan trọng, cơ mật trong triều)



Có thể nói chức danh kỹ thuật và chức vụ hành chính của ông ta từ thấp đến cao đều có đủ, còn năng lực và kinh nghiệm quan trường cũng có thể nói là vào bậc nhất. Lúc nhập các, phẩm quan của ba vị đương kim đại học sĩ đều nhỏ hơn ông ta, cho nên Tiêu thị lang là người có tư cách thăng chức vị đại học sĩ nhất.



Hơn nữa Dương Lăng từng giúp đỡ ông ta, còn lúc Dương Lăng vào ngục vì vụ an Đế lăng thì Tiêu Phương cũng đã nói tốt vài câu giúp y, cho nên Dương Lăng rất có hảo cảm với lão, xếp ông ta vào diện có khả năng làm ứng cử viên. Y từng phái Ngô Kiệt ngấm ngầm điều tra tình hình của người này, không ngờ mình còn chưa biết có nên liên lạc với ông ta hay không thì ông ta đã sớm tìm đến.



Dương Lăng uể oải khoác tay, bảo:



- Văn Tâm, cô lui ra trước đi! Ta muốn nói chuyện cùng Tiêu đại nhân.



Cao Văn Tâm thấy y giả bộ như sắp chết, không khỏi hờn dỗi lườm y một cái rồi mới uyển chuyển đứng dậy, dịu dàng đáp:



- Dạ! Thân thể lão gia còn yếu, đừng quá sức kẻo mệt, tiểu tì cáo lui.



Đoạn nàng lùi hai bước, hành lễ với Tiêu Phương rồi mới nhẹ nhàng lui ra, thuận tay đóng cửa phòng.



Dù bận rộn nhưng Tiêu Phương vẫn thong dong nhấp một ngụm trà, rồi vuốt râu bảo:



- Nghe nói đại nhân bị ám toán trên đường về kinh nên bị trọng thương, thậm chí hôm nay lúc vào triều gặp vua cũng không thể dậy nổi. Bản quan ở Lại Bộ nghe được tin rất lấy làm lo lắng, đứng ngồi không yên nên đành vội vàng xin nghỉ, mang ba cây nhân sâm ngàn năm đến thăm sức khỏe đại nhân.



Dương Lăng đoán không ra mục đích đến đây của lão, cho nên cũng giả vờ chấp nhận:



- Đã phiền lão đại nhân nhọc lòng rồi! Chỉ là một chút thương tích nhỏ, không sao cả đâu.



Tiêu Phương chợt hít hít mũi, rồi nói đầy hàm ý:



- Ừm! Hôm nay thấy đại nhân khí sắc vẫn còn tốt, bản quan cũng yên tâm.



Dương Lăng thấy bộ dạng của lão, thầm nhủ: “Tiêu rồi! Nếu mình được bôi thuốc kim sang (thuốc trị thương) thì sao lại không nghe mùi chứ, lão già này đúng là tinh ranh.” Y cười khan:



- Đại nhân bận rộn nhiều bề mà còn vội vã đến đây thăm hỏi, bản quan rất lấy làm cảm kích!



Tiêu Phương than thở:



- Đại nhân là rường cột của nước nhà, hiện nay chèo chống trong triều chỉ còn lại mỗi mình Lý đại học sĩ, lòng người bất an. Lúc này đang cần đại nhân ngăn cơn sóng dữ, ổn định lòng người, cho nên lão phu thật lòng mong đại nhân sớm khỏi bệnh.



Dương Lăng mỉm cười, giả vờ nâng chén trà lên uống, cúi đầu ngẫm nghĩ: “Lấy lai lịch và chức quan của vị Tiêu đại nhân này mà còn đến thăm nom mình, rồi lại nói những lời nịnh nọt như vậy, chắc chắn là có ý kết giao với mình rồi.



Có điều mình giả bộ bị thương, rút khỏi trường phong ba này để giữ lấy tấm thân, không ngờ lại bị lão già này nhìn ra, quả là tinh tế một cách đáng sợ. Người này sẽ trở thành đồng minh trên chính trường của mình ư?”



Như có điều trầm ngâm nghĩ ngợi, y cầm chén trà uống cạn một hơi. Y vừa ngẩng đầu đặt chén trà lên bàn, Tiêu Phương đã tiếp lấy, rót đầy rồi đẩy nhẹ về phía y.



Thấy thái độ kính cẩn của vị quan lớn tam phẩm bộ Lại râu tóc bạc phơ này, Dương Lăng đã có quyết định trong lòng. Y nghĩ ngợi một chặp, rồi cười nặng nề nói:



- Lão đại nhân khách sáo rồi! Dương mỗ thăng tiến nhanh khiến người ta hâm mộ, nhưng đó đều là theo đường bàng môn, chưa hề tham dự vào đại sự triều đình. Nếu luận kiến thức và kinh nghiệm thì hãy còn kém xa đại nhân, so với rất nhiều triều thần khác thì cũng chẳng bằng.



Y trầm tư một lát, rồi từ tốn nói tiếp:



- Được Hoàng thượng ưu ái, kẻ làm thần tử đương nhiên phải vì người mà san sẻ lo âu. Lần này xuôi nam tuần tra thuế má, Dương mỗ được tai nghe mắt thấy nhiều điều, trong lòng thực ra đã có vài ý tưởng, chỉ là không biết có nông cạn buồn cười hay không, cho nên cũng không dám bẩm tấu lên Hoàng thượng. Lão đại nhân đến vừa đúng lúc, bản quan đang muốn thỉnh giáo, mời đại nhân xem xét hộ cho. Không biết ý đại nhân thế nào?



Tiêu Phương nhếch mày, trong mắt loé lên vẻ vui mừng: "Lời vừa rồi của Dương Lăng chính là có ý chấp nhận mình. Lời nói của kẻ này rất được Hoàng thượng tôn trọng, hiện mấy vị thái giám chưởng quản nội đình cũng răm rắp nghe theo lời y, chỉ cần y chịu đề bạt chiếu cố cho thì mình cần gì phải chịu sự chèn ép của đám người Mã Văn Thăng nữa?



Chẳng qua tuy y còn trẻ tuổi nhưng xuôi nam tuần tra thì giải quyết được các vị thái giám trấn thủ, về kinh thì dẹp yên được sự công kích của quần thần nội ngoại đình; là người suy trước tính sau, thủ đoạn cực kỳ lão luyện, không biết y muốn kiểm tra ta những gì?



Mình phải có chút kiến giải độc đáo khiến y thưởng thức, nhưng phương châm thì phải thống nhất với y về cơ bản mới được, cơ hội khó kiếm, mình phải cẩn thận ứng phó đây."



Tiêu Phương nghĩ đến đây, tinh thần phấn chấn như năm nào vào kinh ứng thí, bèn kéo dịch ghế về phía trước một tí, hơi khom người, tập trung tinh thần:



- Không biết đại nhân có cao kiến gì, lão phu xin lắng nghe.



Dương Lăng nói:



- Lần này bản quan xuống Giang Nam, chủ yếu là tuần tra vùng duyên hải. Ở đó cướp biển hoành hành, theo như bản quan thấy thì người dân và lái buôn vì bị bế quan tỏa cảng mà phải đi buôn lậu. Buôn lậu và cướp biển, những thứ này có cấm cũng chẳng được, cho nên bản quan đến giờ vẫn nghĩ không thông: có câu “lấp không bằng thông”, vì sao triều đình không thể bãi bỏ lệnh cấm biển, khuyến khích người dân thông thương? Chỉ riêng thuế má thu nhập hàng năm há chỉ ngàn vạn.
- Đại nhân cười gì vậy?



Dương Lăng cười đáp:



- Ta thấy cô giống như đang thi ở khoa trường vậy, ha ha, có phải còn muốn thừa đề, phá đề(5)?



Thành Khởi Vận đảo cặp mắt lúng liếng, mỉm cười đáp:



- Đúng vậy! Thi đỗ Trạng nguyên, đến khi nhập các bái tướng*, sẽ lại góp sức cho đại nhân.



(* thời Minh bãi bỏ chức danh tể tướng, cho nên “bái tướng” không phải thật sự là làm tể tướng mà cũng là chỉ gia nhập Nội các làm đại học sĩ)



Dương Lăng hừ một tiếng:



- Chỉ sợ Thành cô nương thực sự làm tể tướng, sẽ chẳng thèm đặt Dương mỗ vào trong mắt nữa.



Thành Khởi Vận hiếm khi thấy y nói đùa với mình, không khỏi lấy làm rất mừng, nàng vừa định nói: “Ta muốn làm hoàng đế, đem ngươi nạp vào hậu cung làm hoàng hậu, coi ngươi còn dám xem thường ta không.” Lời vừa đến cửa miệng lại cảm thấy thật sự là đại nghịch bất đạo, Dương Lăng là đại quan triều đình, không chừng nghe xong sẽ nổi giận, bèn nuốt xuống ngay.



Dương Lăng thấy nàng muốn nói lại thôi, bèn hỏi:



- Sao vậy? Có gì muốn nói à?



Thành Khởi Vận mỉm cười quyến rũ:



- Bất cứ việc gì đại nhân cũng đều lo bại rồi mới lo thành, nay biết rõ nguyên nhân cấm biển là rất phức tạp, nhưng vẫn có lòng đùa giỡn, phải chăng trong lòng đại nhân đã có kế sách?



Dương Lăng vui vẻ:



- Ha ha, quả nhiên là thông minh! Không giấu gì cô nương, nếu bá quan trong triều thật sự chỉ là đám hủ nho, chỉ biết tuân theo di huấn thánh nhân, còn Dương mỗ chỉ là một gã dân quê dốt nát thì sao nói lý lại bọn họ? Chỉ sợ ta có nói hộc máu thì bọn họ cũng cho là ta đang nói những lời tà thuyết mê hoặc lòng người thôi. Còn nếu như đa số đều đặt lợi ích làm đầu, dù là vì triều đình hay là vì gia tộc, thì cũng không phải là khó đối phó nữa.



Ánh mắt Thành Khởi Vận sáng lên, nàng vội vàng hỏi:



- Đại nhân có diệu kế gì?



Dương Lăng đứng dậy, xoay người thản nhiên đi ra ngoài, nói với lại:



- Hôm nay vừa mới về, ta thật muốn nếm chút cơm nhà, mời Thành cô nương. Về phần đối sách, ta vẫn cần tìm thêm mấy người, đến lúc đó hẵng thương nghị.



Thành Khởi Vận tức giận vô cùng, cố rướn mắt nhìn theo bóng lưng y sẵng giọng:



- Oai lắm sao? Đợi ta nghĩ ra chủ ý rồi xem ta có nói cho ngươi không!



Lời vừa thốt ra, nàng chợt thấy má nóng lên: “Trước đây ta cáu gắt giận dỗi, chẳng qua là làm bộ cho vui, hôm nay sao thế nhỉ? Đứng trước mặt hắn sao mình càng ngày càng khó điềm tĩnh như thế này?“



Chú thích:



Chú thích:



(1)Dương thương tổn nông: Khuyến khích làm thương nghiệp mà bỏ bê nông nghiệp



(2)Kinh, sử, tử, tập: Trung Quốc cổ đại chia đồ thư làm 4 bộ, tức “Kinh, sử, tử,



tập”, cụ thể:



Kinh bộ: chỉ học thuyết của nhà nho. Kinh thư của nho gia ban đầu có năm bộ, gồm thi, thư, dịch, lễ, xuân thu, xưng là “Ngũ Kinh”. Từ đời nhà Đường đến nhà Tống, hình thành thập tam kinh, gồm dịch, thư, thi, chu lễ, nghi lễ, lễ kỷ, tả truyện, công dương truyện, cốc lương truyện, luận ngữ, hiếu kinh, nhĩ nhã, mạnh tử.



Sử bộ: là sách sử ghi chép hưng suy loạn lạc, các nhân vật cho đến các chế độ trong lịch sử.



Tử bộ: thư tịch ghi lại học thuyết của chư tử bách gia.



Tập bộ: phàm là tán văn, biền văn, thi, từ, khúc và bình luận văn học đều quy làm tập bộ.



(3)Tôn Tư Mạc: Tôn Tư Mạc sinh ra trong triều đại Tây Ngụy, được người đời tôn xưng là Dược Vương và Tôn Thiên Y, là một thầy thuốc nổi danh thời cổ đại của Trung Hoa. Ông cũng là người áp dụng khí công trong thuật dưỡng sinh.



(4)“Phụ mẫu tại, bất viễn du”: xuất xứ từ Luận Ngữ, nguyên văn: “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương”, ý nói cha mẹ còn sống, con cái không được đi xa, phải ở bên cạnh hầu hạ thủ hiếu. Nếu muốn đi thì phải có mục đích rõ ràng và phải báo cho cha mẹ yên tâm.



(5)Một bài "Kinh nghĩa" viết theo thể bát cổ (bát: tám, cổ: vế; tức là một đoạn văn gồm tám vế, không có vần nhưng có đối) gồm hai phần lớn: A - Phần đầu là "phát đoan" (mở đầu) gồm ba phần nhỏ: 1. Phá đề: gồm hai câu mở bài, nói về mặt chữ và nghĩa của đề. 2. Thừa đề: nối theo đoạn phá vài ba câu, nêu rõ ý đồ của phá đề. 3. Khởi giảng: nói khai mào đại ý của đề mục. Ở toàn bộ phận phát đoan, về thể văn: không có yêu cầu về vần và đối (tức là văn ở đây không phải là văn biền ngẫu), về ý: các phần phá đề và thừa đề được coi là lời người viết bài nói; các phần từ khởi giảng về sau, người viết phải thay lời người xưa mà nói. B - Phần sau là "nghị luận" gồm 4 phần nhỏ: 4. Khởi cổ (hoặc khai giảng - mở ý đề bài, cuối đoạn này có một câu hoàn đề nhắc lại câu đề bài) 5. Trung cổ (giải thích rõ nghĩa của đề bài) 6. Hậu cổ (bàn rộng về ý của đề bài) 7. Mạt cổ (hoặc kết cổ, kết tị - đóng lại ý của đề bài, cuối đoạn này có một vài câu thắt đầu bài lại, gọi là thúc đề hoặc thúc kết)