Ngược Về Thời Minh

Chương 158 : Lấy được thứ mình cần

Ngày đăng: 13:23 30/04/20


Lập tức lời nói của Dương Lăng khiến Lý Đông Dương sững sờ. Tại thời điểm này, cho dù là ông thì trước mặt đồng liêu hảo hữu cũng không dám bình luận về Bát Hổ và Tiêu Phương một cách không hề kiêng nể như vậy cả. Dương Lăng cùng bè phái với Bát Hổ và Tiêu Phương mà lại dám buông lời thẳng thắn trước mặt mình như vậy, y điên rồi sao?



Sắc mặt Lý Đông Dương không ngừng thay đổi, chốc sau mới khẽ cười nói:



- Dương đại nhân nói chuyện như vậy, chẳng lẽ không sợ người trong Nội đình và Tiêu đại học sĩ sẽ trở mặt thành thù với đại nhân hay sao?



Dương Lăng bật cười hắc hắc, nói:



- Nếu Lý đại học sĩ không sợ bị người ta quy là tiểu nhân vu khống, chia rẽ ly gián thì cứ việc nói cho bọn họ biết đi.



Lý Đông Dương thoáng sững ra rồi bỗng ngửa mặt lên trời cười lớn. Dương Lăng mỉm cười nhìn ông: hai người đã truyện trò trong phòng kín, bất luận thành thật với nhau như thế nào thì những lời này đều không thể dùng làm chứng cứ truyền ra ngoài gây ảnh hưởng đến thanh danh và quan uy của bọn họ. Dương Lăng đã có thể thẳng thắn như vậy, Lý Đông Dương đương nhiên cũng không cần phải úy kị nữa.



Quả nhiên, cười thư sướng xong, Lý Đông Dương vỗ tay nói:



- Đến ngày hôm nay còn có thể nghe được lời sướng lòng mát dạ như vậy, lại được thốt ra từ miệng Dương đại nhân thực khiến lão phu kinh ngạc. Dương đại nhân hôm nay đến thăm, chẳng hay mục đích là chi, xin hãy nói thẳng.



Dương Lăng mỉm cười nói:



- Lẽ phải hay chính nghĩa, nói cho cùng chẳng qua là vì chữ lợi trong đó mà thôi. Có cái lợi của nước nhà, cái lợi của bá tánh, và cái lợi của cá nhân. Hôm nay hạ quan đến bái kiến đại nhân chính là muốn vì triều đình, vì bá tánh mà mưu lợi.



Ánh mắt Lý Đông Dương thoáng tập trung lại. Ông chăm chú nhìn y hỏi:



- Lời này của Dương đại nhân là có ý gì?



Dương Lăng hít sâu vào một hơi rồi nói:



- Hạ quan từ Giang Nam trở về, cảm thấy rằng vùng đất giàu có sung túc từ xưa như Giang Nam nếu chỉ dựa vào ruộng nương thì đã không thể phát triển thêm nữa. Thương nhân Giang Nam tuy nhiều nhưng sản vật tinh mỹ thì chỉ có thân sĩ phú hào các nơi mới có thể tiêu thụ nổi, vướng phải hạn chế này nên rất ít dân chúng được nhờ (ơn ấy). Thêm nữa, giặc Oa lộng hành vùng duyên hải, dẫu chưa thành mối hoạ ngầm nhưng dân chúng Đại Minh chịu nhiều quấy nhiễu, trong khi triều đình trú đóng trọng binh ở duyên hải, nơi nơi bị động phòng ngự nhưng lại không thể ngăn được hết lũ giặc cướp ấy. Đại quân hao tài tốn của mà lại không thể cứu giúp bá tánh ven biển trong lửa bỏng dầu sôi, đủ loại tệ bệnh sinh ra cũng bởi từ cấm biển. Hạ quan cho rằng, nếu như giải cấm thông thương thì sẽ có thể diệt trừ căn nguyên của nạn giặc lùn vậy, và buôn lậu bất hợp pháp sẽ không còn chốn dung thân. Triều đình vừa có thể thêm được số thuế khổng lồ mà lê dân bá tánh cũng có thể kiếm lợi từ trong đó, vậy cớ sao lại không làm?



Lý Đông Dương kinh ngạc vô cùng. Ông chỉ nghĩ rằng nay Dương Lăng nắm trọng quyền nên muốn làm nên chút thành tích để tạo dựng uy tín, song không ngờ y lại chọn con đường gian nan như vậy.



Bãi bỏ bế môn tỏa cảng không hẳn đã là phương thuốc hoàn hảo vô khuyết nhưng so với cấm biển cấm thương thì tốt hơn rất nhiều. Ông chủ trì triều chính lâu năm, đứng trên bậc cao nhất này đương nhiên có thể thấy rõ mấu chốt quan trọng trong đó, nhưng muốn thúc đẩy chính sách này thì tương lai sẽ vấp phải muôn vàn trắc trở từ phía triều đình.



Cho dù là khi ông và hai người Lưu, Tạ chủ trì triều chính, lại được vua Hoằng Trị hết sức tín nhiệm nhưng cũng biết nếu phí công mất lòng đi khuyên nhủ Hoàng đế giải cấm thông thương thì không khéo sẽ lại chuốc họa vào thân.



Khi cùng Lưu, Tạ bàn luận riêng về triều chính, nghĩ đến những mấu chốt phức tạp trong lệnh cấm biển, Lý Đông Dương cũng không khỏi tặc lưỡi lắc đầu cho rằng giải trừ cấm biển là một hy vọng xa vời.



Tuy bọn họ là những hiền thần tài giỏi nhưng cũng không ngờ hơn năm mươi năm sau, giải trừ hoàn toàn lệnh cấm biển đã trở thành nhiệm vụ cấp bách, hơn nữa dưới sự nhất trí đồng loạt của triều đình, Đại Minh đã thuận lợi thực thi nó. Có điều, quốc gia luôn thi hành biện pháp chính trị từng bước một cho nên hiệu quả thực tế khác xa một trời một vực, lúc đó đã hơi muộn.



Lý Đông Dương khép mắt đưa chén trà lên môi rồi trầm ngâm không nói gì.



Dương Lăng biết ông còn phải tiêu hoá lời nói vừa rồi và hơn nữa là suy đoán mục đích thật sự của mình khi đến đây, vì vậy chỉ lẳng lặng ngồi chờ không hề thúc giục. Một lúc sau, Lý Đông Dương mới hớp một ngụm trà rồi đặt chén xuống và mỉm cười nói:



- Dương đại nhân cho rằng bình Oa định hải, cường quốc phú dân, giải trừ cấm biển là một liều thuốc hay ư?



Dương Lăng thành khẩn nói:



- Đại nhân, phương pháp cường quốc phú dân đương nhiên không chỉ có một, có điều giải trừ cấm biển thông thương vẫn có thể xem là một biện pháp tốt. Biển khơi nằm đó, bờ biển kéo dài vạn dặm, việc buôn bán giữa trong và ngoài nước thuỷ chung khó mà cấm tiệt.



Những kẻ chế tạo thuyền hai cột muốn chém giết cũng chỉ có thể chặt chém dân chúng Đại Minh ta, cấm biển cũng chỉ có thể cấm dân chúng Đại Minh chúng ta. Thường có câu "dựa rừng nhờ rừng, dựa biển nhờ biển", biển cả giống như một cái chậu châu báu to, chỉ vì giặc lùn làm loạn mà vứt bỏ nó, kết quả bít đường buôn bán, thương nhân mất đi đường sống nên phải chuyển sang làm giặc.
- Bà mẹ nó, thượng đế gì chứ? Có lớn hơn Ngọc Hoàng đại đế không? Mấy cái tên quỷ đỏ ngoại quốc các người, mau biến đi cho ta, còn đứng đó cản trở buôn bán của ta nữa thì đừng có trách ta không nể mặt.



Người tóc vàng mặc áo dài đen vừa bị đẩy xuống bậc thềm vừa nói:



- Xin đừng nhục mạ thượng đế. Thượng đế nói với chúng ta rằng, chúng ta đều là anh chị em tương thân tương ái. Ôi những con chiên lạc lối... ui da...



Gã vừa đang muốn bày tỏ cảm xúc thì không biết tay chủ tiệm nọ dùng vật gì đã đánh gã một cái, khiến gã ôm đầu kêu la. Người tóc đỏ kia thấy vậy liền lớn tiếng cãi cọ.



Gã chưởng ban phiên tử thấy hai tốp người cãi nhau càng lúc càng hăng, đang định bước lên giải tán bọn họ, tránh phá giấc ngủ của Dương Lăng thì Dương Lăng đã nghe tiếng động mà tỉnh dậy. Y vén rèm kiệu nhíu mày hỏi:



- Có chuyện gì vậy? Ai đang cãi nhau đó?



Y còn chưa dứt lời, đúng lúc đó người tóc đỏ dìu người tóc vàng quay lại. Dương Lăng trông thấy bộ dạng hai người thì không khỏi sững ra. Từ lúc đến Đại Minh đến nay, mấy người có tướng mạo quái dị như vậy cũng chỉ ở Hộ Quốc tự là y mới gặp. Không phải bọn họ là đám giáo sĩ Cơ Đốc Tây dương đó sao?



Dương Lăng liền vội nhổm người xuống kiệu, cười lớn chào:



- Hai vị giáo sĩ, đã lâu không gặp.



Đến gần nhìn kỹ bộ dạng của hai vị giáo sĩ Tây dương, chỉ thấy bộ áo dài tu sĩ màu đen đã rách bươm, cả hai người mặt mày xanh xao hốc hác, xem ra đã trải qua cuộc sống vô cùng khổ cực, Dương Lăng không khỏi giật mình thất kinh:



- Hai vị, các người sao... không phải các vị vẫn luôn ở trong Hộ Quốc tự à? Hoàng... à không... vị lão gia lương thiện nọ đã quyên ba ngàn lạng bạc tiền hương quả góp cho chùa. Sao... lại đuổi các vị ra vậy?



Chú thích:



(1) Nguyên văn



Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật,



Vương Mãng khiêm cung vị soán thì.



Trích trong bài Phóng Ngôn 3 của Bạch Cư Dị.



Hai câu này có ý như



“Thức khuya mới biết đêm dài,



Ở lâu mới biết là người nông sâu”.



Câu đầu nhắc đến tích Chu Công ủng hộ ấu chúa lên ngôi vua, sau bị dèm là có ý phản nghịch, bị vua nghi ngờ nên sợ hãi phải về quê ở ẩn; mãi sau mới được minh oan.



Vương Mãng là cậu vua, lúc làm tướng quốc giả bộ là người rất khiêm cung, giữ lễ, tôn kính sỹ phu, … Khi được lòng người tin phục thì bèn cướp ngôi nhà Hán.



Xin xem thêm http://iask.sina.com.cn/b/10433892.html



(Ba_Van)



(2) Dân dĩ thực vi thiên (民以食為天), hay Dân dĩ thực vi tiên, có nguồn gốc xuất xứ từ "Sử ký - Lệ Thực Kỳ Lục Giả Liệt Truyện 史記•酈食其陸賈列傳", trong đó có câu nói rằng: "Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên -王者以民為天,而民以食為天" (tạm dịch: Bậc vua chúa lấy dân làm điều tiên quyết để tồn tại, mà dân thì lấy sự ăn làm điều quan trọng hàng đầu". Thiên: ở đây có nghĩa là cái tối quan trọng để tồn tại.