Nhật Ký Bí Mật Của Tiểu Thư Miranda

Chương 4 :

Ngày đăng: 15:43 19/04/20


Turner đã có kế hoạch dành cả mùa xuân và mùa hè ở Northumberland, nơi anh có thể bỏ quách cái trò để tang vợ và tận hưởng một chút riêng tư nào đấy, nhưng mẹ anh đã viện đến một số lượng các mưu mẹo mánh khoé đáng kinh ngạc - dĩ nhiên là cả những trò kết tội gây chết người nhất - để ép buộc hối thúc anh phải đến London hỗ trợ Olivia.



Anh không nhận lời khi bà chỉ ra rằng anh là một người cầm trịch trong cái xã hội thượng lưu đó, vì thế sự hiện diện của anh trong vũ hội của Olivia sẽ đảm bảo thu hút được các quý ông trẻ trung sáng giá nhất.



Anh không nhận lời khi bà nói rằng anh không nên ẩn dật ở nông thôn, sự cách biệt với bạn bè sẽ không tốt cho anh.



Tuy nhiên, anh đã nhận lời khi bà xuất hiện trên thềm nhà anh, thậm chí không buồn chào hỏi mà nói ngay, “Con bé là em gái con.”



Thế là anh đã ở đây, trong Dinh thự Rudland ở London, bị bao vây bởi năm trăm con người nếu không phải là ưu tú nhất thì cũng là khoang trương nhất Anh quốc.



Dù sao thì Olivia vẫn phải tìm cho được một tấm chồng trong đám người đó, và Miranda cũng vậy, còn Turner thì nhất định sẽ không cho phép ai trong hai cô gái phải chịu một cuộc hôn nhân bất hạnh như của anh. London đang lúc nhúc những gã tương tự như Leticia, hầu hết bọn họ đều bắt đầu tên mình với những dang xưng như Ngài này hoặc Đức ông nọ. Và Turner hết sức nghi ngờ việc những chuyện tục tĩu bậy bạ vốn chỉ lưu hành trong đám đàn ông lại có thể bay đến tai mẹ anh được.



Còn anh cũng không nhất thiết phải xuất hiện quá nhiều. Anh ở đây, trong vũ hội ra mắt của hai cô gái, và thỉnh thoảng sẽ hộ tống họ, có lẽ là đến nhà hát nếu ở đó thực sự có gì đấy anh thấy muốn xem, còn lại thì anh chỉ đứng sau cánh gà giám sát quá trình tiến triển của họ mà thôi. Đến cuối mùa hè, anh sẽ hoàn thành tất cả những công việc vớ vẩn này, và anh có thể quay lại...



Ờ, anh có thể quay lại với bất cứ thứ gì mà anh định làm. Nghiên cứu về việc luân canh mùa vụ, có lẽ thế. Nắm bắt kỹ thuật bắn cung. Ghé thăm quán rượu địa phương. Anh khá thích rượu bia của họ. Và sẽ không ai hỏi anh về phu nhân Turner mới qua đời cả.



“Con yêu, con đây rồi!” Mẹ anh đột nhiên xuất hiện trước mặt anh, duyên dáng trong chiếc áo dài màu đỏ tía.



“Con đã bảo mẹ là con sẽ đến đúng giờ mà,” anh đáp, uống cạn ly sâm banh đang cầm trên tay. “Mẹ không được thông báo là con đã đến à?”



“Không,” bà có vẻ bực bội. “Mẹ đang phải tất bật như một mụ điên với tất cả những chi tiết ở phút cuối cùng. Mẹ chắc đám người hầu không muốn làm phiền mẹ đâu.”



“Hoặc bọn họ không thể tìm thấy mẹ,” Turner bình luận, lười nhác quét mắt qua đám đông. Đám người đông đến phát cuồng - một sự thành công theo bất cứ tiêu chuẩn nào. Anh không thấy cả hai vị khách danh dự, nhưng rồi một lần nữa, anh khá hài lòng với việc ẩn trong bóng tối thêm chừng hai mươi phút nên giờ anh mới hiện diện.



“Mẹ đã an tâm cho phép cả hai cô gái nhảy điệu van,” Phu nhân Rudland nói, “vậy nên con làm ơn thực hiện nhiệm vụ của mình với cả hai đứa nhé.”



“Một mệnh lệnh trực tiếp,” anh lẩm bẩm.



“Đặc biệt là Miranda,” bà nói thêm, rõ ràng không nghe thấy câu bình luận của anh.



“Đặc biệt là Miranda, ý mẹ là sao?”



Bà Rudland quay sang nhìn Turner với ánh mắt nghiêm nghị. “Miranda là một cô gái đặc biệt, và mẹ rất quý con bé, nhưng cả hai chúng ta đều biết nó không thuộc típ người được xã hội ủng hộ.”



Turner trao cho bà một cái nhìn sắc lẻm. “Chúng ta đều biết rằng thái độ của xã hội là sự phán xét tuyệt vời hiếm có đối với nhân cách con người. Leticia, nếu mẹ còn nhớ, là một thành công vĩ đại đấy.”



“Và Olivia cũng thành công y như vậy, nếu đêm nay được xem là một dấu hiệu nào đấy,” mẹ anh đáp trả một cách chua cay. “Xã hội vốn đỏng đảnh thất thường và đền bù xứng đáng cho thói xấu cũng như nết tốt. Nhưng nó không bao giờ tưởng thưởng cho sự im lặng.”



Đúng lúc đó, Turner bắt gặp Miranda đang đứng gần Olivia cạnh cửa vào phòng khiêu vũ.



Ngay gần Olivia, nhưng hai thế giới hoàn toàn tách biệt.



Không phải Miranda bị làm ngơ, bởi vì chắc chắn cô không bị ai làm ngơ cả. Cô đang mỉm cười với một công tử trẻ mời cô khiêu vũ. Nhưng cô không có gì giống với đám đông bao đang bao quanh Olivia, mà Turner phải công nhận là cô em gái của mình tỏa sáng như một viên đá quý lộng lẫy được đặt vào đúng vị trí thích hợp của nó. Đôi mắt Olivia sáng lấp lánh, và khi cô cười, âm nhạc dường như ngập tràn cả không trung.



Có điều gì đấy thật lôi cuốn quyến rũ ở em gái anh. Ngay cả Turner cũng phải thừa nhận sự thật này.



Nhưng Miranda thì khác. Cô quan sát. Cô mỉm cười, nhưng cứ như thể cô đang có một bí mật, đang tốc ký ghi chép lại trong đầu về những người cô gặp gỡ.



“Đến khiêu vũ với con bé đi,” mẹ anh thúc giục.



“Miranda ạ?” anh ngạc nhiên hỏi lại. Anh những tưởng bà muốn mình dành điệu vũ đầu tiên cho Olivia.



Phu nhân Rudland gật đầu. “Đó là một việc phi thường đối với con bé. Còn con thì đã không khiêu vũ kể từ khi... từ khi nào mẹ thậm chí không thể nhớ được. Rất lâu trước khi Leticia chết.”



Turner cảm thấy quai hàm nghiến chặt, và đúng lúc anh định nói gì đó thì mẹ anh đột nhiên há hốc miệng kinh ngạc, nhưng thế vẫn chưa đáng kinh ngạc bằng một nửa cái việc xảy ra sau đó mà anh chắc chắn là tác động đầu tiên của lời báng bổ chưa từng thấy lướt qua môi bà.



“Mẹ?” anh hỏi.



“Băng tang của con đâu rồi?” bà thì thào gấp gáp.



“Băng tang của con à,” anh đáp lạnh tanh.



“Cho Leticia,” bà nói thêm, như thể anh không hiểu vậy.



“Con tin con đã nói với mẹ rằng con đã quyết định không để tang thương tiếc cho cô ta.”



“Nhưng đây là London,” bà rít lên. “Và lễ ra mắt của em gái con.”



Anh nhún vai. “Áo khoác của con màu đen.”



“Áo con lúc nào chả màu đen.”



“Thế thì có lẽ con vĩnh viễn để tang,” anh ôn tồn nói, “cho sự ngây thơ đã mất.”



“Con sẽ gây ra một vụ tai tiếng mất thôi,” bà vẫn rít lên.



“Không,” anh nói một cách mỉa mai, “Leticia đã gây ra những vụ tai tiếng sẵn rồi. Con chỉ đơn giản đang từ chối thương tiếc người vợ bê bối của mình thôi.”



“Con muốn hủy hoại em gái mình sao?”



“Hành động của con không ảnh hưởng xấu đến em ấy bằng một nửa những gì người bạn đời quá cố của con đã đáng lẽ có thể làm.”



“Không phải chuyện so sánh này nọ, Turner. Vấn đề là vợ con đã qua đời và...”



“Con đã thấy cái xác ấy,” anh chêm vào, chặn đứng những luận điểm của mẹ.



Phu nhân Rudland liền rút lui. “Không cần phải ăn nói khiếm nhã như thế.”



Đầu Turner bắt đầu nện thình thịch. “Vậy thì con xin lỗi.”



“Mẹ mong con sẽ cân nhắc.”



“Hơn ai hết con cũng mong mình không phải là nguyên nhân nỗi phiền muộn của mẹ,” anh thở dài, “nhưng con sẽ không đổi ý đâu. Một là mẹ để con ở London này mà không mang băng tang, hai là mẹ có thể cho con về Northumberland... cũng không mang băng tang,” anh nói nốt sau khi ngừng lại. “Đó là quyết định của mẹ.”



Quai hàm mẹ anh nghiến chặt, bà không nói gì, vậy nên anh nhún vai và nói, “Thế thì con đi tìm Miranda đây.”



Và anh biến mất.



Miranda đã đến thành phố được hai tuần. Mặc dù không chắc mình có thể được xem là một thành công hay không nhưng cô cũng không nghĩ mình hội đủ điều kiện để bị coi là thất bại. Cô đang ở đúng vị trí mà mình kỳ vọng - đâu đó tầm trung trung, với một cái thẻ khiêu vũ luôn luôn kín phân nửa và một cuốn nhật ký toàn những quan sát ngớ ngẩn vớ vẩn, đôi khi có cả nỗi đau. (Đó là chuyện ngài Chisselworth vấp phải một bậc thang ở vũ hội nhà Mottram và bị trật mắt cá chân. Còn những thứ ngớ ngẩn, vớ vẩn thì quá nhiều không đếm xuể.)



Nhìn chung, cô nghĩ với một người được Chúa trời ban tặng những tài năng và tính cách đặc biệt như mình thì vậy đã được xem là thành công rồi. Trong nhật ký của mình, cô đã viết...



Mình đang được mài giũa các kỹ năng giao tiếp xã hội, nhưng như Olivia đã chỉ ra, tán chuyện huyên thuyên vô tích sự không phải là sở trường của mình. Nhưng dù sao thì mình đã luyện thành công kiểu cười hiền dịu rỗng tuếch, và dường như công dụng lừa đảo của nó đang phát huy rất tốt. Mình đã nhận được đến ba lời mời dùng bữa tối cơ đấy!



Dĩ nhiên, vị trí bạn thân thiết của Olivia nổi tiếng cũng giúp ích khá nhiều. Olivia đã mang đến một cơn bão - như tất cả mọi người đều biết trước - và Miranda được hưởng sái. Có những quý ông quá chậm chân nên không thể kiếm được một điệu nhảy với Olivia, lại có những người đơn giản là quá sợ hãi không dám nói chuyện với cô ấy. (Những lần như vậy, Miranda thường có vẻ là sự lựa chọn dễ chịu hơn.)



Nhưng ngay cả với sự chú ý thừa mứa ấy, Miranda vẫn đứng một mình khi một giọng nói quen thuộc đến nao lòng vang lên...



“Đừng có nói là anh đã bắt gặp em không có ai sánh đôi đấy nhé, tiểu thư Cheever.”



Là Turner.



Cô không thể không mỉm cười. Anh đẹp trai kinh khủng trong bộ dạ phục màu đen,và mái tóc lấp lánh ánh nến hoàng kim. “Anh đã đến đấy à,” cô đáp lại một cách đơn giản.



“Em không nghĩ là anh sẽ đến à?”



Phu nhân Rudland đã nói anh sẽ tới vũ hội này, nhưng Miranda không dám quá chắc chắn. Anh đã thể hiện khá rõ ràng là anh không muốn tham dự vào các hoạt động xã hội năm đó. Hoặc năm nào cũng vậy. Thật khó mà nói trước được điều gì.


Anh cúi xuống, một lọn tóc rũ sát mặt cô. “Đã có ai nói với em rằng mỉm cười khi bàn luận về cái chết của một người họ hàng là bất lịch sự không hả?”



“Em chưa từng gặp người đó.”



“Nhưng mà...”



Miranda buông một tiếng thở dài ra dáng tiểu thư quý phái. Cô biết anh đang trêu chọc cô, nhưng cô đang quá vui nên không muốn dừng lại. “Ông ấy sống cả đời ở vùng Caribbean,” cô thêm. Không hoàn toàn là sự thật, nhưng cũng gần như thế.



“Em đúng là ngựa non háu đá,” anh lẩm bẩm.



Cô nhún vai. Từ miệng Turner thì đây có vẻ là một lời khen.



“Anh tin em sẽ được gia đình anh chào đón. Miễn là em có thể chịu đựng được em trai anh trong cuộc đời dài lê thê.”



Miranda cố gắng nặn ra một nụ cười sao cho chân thành. Kết hôn với Winston để trở thành thành viên trong gia đình Bevelstoke không phải là giải pháp cô thích. Và bất chấp sự thúc đẩy cùng những mưu mô của Olivia, Miranda vẫn nghĩ chuyện này sẽ chẳng dẫn đến cuộc hôn nhân nào hết.



Có nhiều lý do tuyệt vời để cân nhắc việc kết hôn với Winston, nhưng chỉ có một lý do thuyết phục để không làm việc ấy, và cái lý do đó đang đứng ngay trước mặt cô đây.



Nếu Miranda định kết hôn với một người mà cô không yêu thì đó sẽ không phải là em trai của người mà cô yêu.



Hoặc cô nghĩ là mình đã yêu. Cô vẫn cố gắng thuyết phục bản thân rằng cô không yêu anh, tất cả chỉ là một trò si mê thời nữ sinh, và rằng cô sẽ vượt qua được - rằng cô đã vượt qua nó rồi, chỉ là chưa nhận ra mà thôi.



Cô có thói quen nghĩ là mình yêu anh. Tất cả chỉ có thế.



Nhưng rồi anh sẽ làm điều gì đó cực kỳ đáng ghét, như mỉm cười chẳng hạn, thế là toàn bộ nỗ lực vất vả của cô đổ hết xuống sông xuống biển, và cô lại phải làm lại từ đầu.



Một ngày nào đó nó sẽ phải kết thúc. Một ngày nào đó cô sẽ thức dậy và nhận ra rằng đã hai ngày rồi cô không hề nghĩ đến Turner, và như một phép mầu, tình trạng đó sẽ kéo dài ba ngày, rồi bốn ngày...



“Miranda?”



Cô ngẩng lên. Anh đang quan sát cô với vẻ thích thú, hầu như là kẻ cả bề trên, ngoại trừ đôi mắt đang nheo lại... và trong một thoáng, nhìn anh như thể đã cất được gánh nặng trong lòng, lại trẻ trung, thậm chí là mãn nguyện nữa.



Và cô vẫn yêu anh. Ít nhất là từ giờ cho đến hết tối, cô sẽ không cố gắng tự thuyết phục bản thân gì hết. Sáng mai, cô sẽ bắt đầu lại, nhưng chỉ đêm nay thôi, cô sẽ để mặc bản thân yêu anh.



Âm nhạc kết thúc, Turner thả tay cô ra, bước lùi lại để cúi chào lịch lãm. Miranda nhún gối đáp lại, sau đó khoác tay anh theo anh đến rìa phòng.



“Theo em chúng ta có thể tìm Olivia ở đâu bây giờ?” anh vừa than thở vừa nghển cổ nhìn. “Anh nghĩ mình phải đá một trong số các quý ông ra khỏi tấm thẻ của con bé để được khiêu vũ với nó mất.”



“Ôi vì Chúa, đừng làm nó nghe như một nhiệm vụ nặng nề như thế chứ,” Miranda quay lại. “Bọn em đâu có kinh khủngvậy.”



Anh quay sang nhìn cô với một thoáng ngạc nhiên. “Anh có nói g về em đâu. Anh tuyệt đối không lo lắng gì về vụ khiêu vũ với em cả.”



Khi những lời khen ngợi đến một cách thờ ơ nhất, Miranda vẫn tìm được cách để giữ nó cạnh trái tim mình.



Và điều đó, cô khổ sở nghĩ, là bằng chứng cho thấy cô đã lún đủ sâu để ra đi rồi. Cô dần khám phá ra rằng tình yêu đơn phương còn tệ hơn nhiều khi người ta thực sự nhìn thấy đối tượng mà họ thầm thương trộm nhớ. Suốt gần mười năm qua, cô đã mơ mộng về Turner, kiên nhẫn chờ đợi bất cứ tin tức nào từ người nhà Bevelstoke tình cờ ghé thăm cô vào giờ trà chiều, và rồi cố che giấu niềm hạnh phúc và vui sướng (đấy là chưa kể đến nỗi sợ hãi bị phát hiện) khi anh tình cờ đến thăm một hoặc hai lần mỗi năm.



Miranda cứ tưởng rằng không còn gì thảm hại hơn được nữa, nhưng giờ thì cô thấy rõ là mình đã lầm. Điều này chắc chắn còn tồi tệ hơn. Trước đây, cô chẳng là ai cả. Còn bây giờ cô là một chiếc giày cũ thoải mái dễ chịu.



Trời ơi!



Cô nhìn trộm anh. Anh không nhìn cô. Không phải anh cố tình không nhìn cô, và chắc chắn anh cũng chẳng việc gì phải né tránh nhìn cô. Chỉ đơn giản anh không nhìn cô thôi.



Cô chẳng hề khiến anh xao động dù chỉ một chút.



“Olivia kìa,” cô nói rồi thở dài. Bạn cô đang bị vây quanh, như thường thấy, bởi một vòng tròn quý ông lớn đến mức lố bịch.



Turner nheo mắt chăm chút nhìn em gái. “Nom không có vẻ gì là có kẻ nào trong số đó đang cư xử luống cuống phải không? Thật là một ngày dài, anh thấy tối nay mình không cần phải đóng vai một ông anh trai dữ dằn.”



Miranda kiễng chân để nhìn rõ hơn. “Em nghĩ anh an toàn rồi.”



“Tốt.” Thế rồi anh nhận ra đầu mình đã nghiêng hẳn về một bên, anh đang quan sát em gái với một con mắt khách quan lạ lẫm. “Hừmmm.”



“Hừmmm?”



Anh quay lại với Miranda. Cô đang ở bên cạnh, quan sát anh với đôi mắt nâu tò mò hơn bao giờ hết.



“Turner?” anh nghe thấy cô gọi, và anh đáp lại bằng một câu “Hừmmm?” khác.



“Nhìn anh hơi kỳ quặc.”



Không phải là Anh có ổn không? Hay Anh không khỏe à? Mà là Nhìn anh hơi kỳ quặc.



Điều đó khiến anh mỉm cười. Nó khiến anh phải nghĩ xem mình thực sự thích cô gái này nhiều đến mức nào, và trong ngày tổ chức lễ tang cho Leticia anh đã cư xử với cô không phải đến mức nào. Nó khiến anh muốn làm điều gì đó tốt đẹp cho cô. Anh nhìn em gái mình lần cuối, rồi vừa chầm chậm xoay người lại vừa nói, “Nếu anh là một gã công tử bột trẻ trung thì em nên nhớ rằng anh không...”



“Turner, anh thậm chí chưa tới ba mươi mà.”



Nét mặt cô chuyển thành nôn nóng - theo cung cách của một nữ gia sư mà anh thấy thú vị kỳ lạ, thế là anh uể oải nhún vai đáp lại, “Phải, nhưng mà ờ... anh cảm thấy mình già hơn thế. Nói thật lòng thì những ngày này anh thấy mình phải bảy tám chục tuổi rồi.” Rồi anh nhận ra cô đang nhìn mình chờ đợi, anh lại húng hắng giọng nói tiếp, “Anh chỉ định nói rằng nếu anh là người đang bu quanh đám các cô gái mới trình diện kia, thì anh không tin Olivia sẽ thu hút được ánh mắt anh.”



Lông mày Miranda nhướn lên. “Cô ấy là em gái anh mà. Ngoài cái thực tế là việc đó sẽ trái với luân thường đạo lý...”



Ôi, vì Chúa... “Anh đang cố khen em mà,” anh ngắt ngang.



“Ồ.” Cô ho khan. Đỏ mặt một chút, mặc dù trong ánh sáng mờ ảo này thì thật khó biết chắc được. “Ờ, trong trường hợp đó, anh cứ nói tiếp đi.”



“Olivia khá xinh đẹp,” anh tiếp tục. “Ngay cả anh là anh trai nó còn có thể thấy thế. Nhưng trong ánh mắt của con bé còn thiếu một điều gì đấy.”



Miranda thở dài. “Turner, anh vừa nói một điều thật khủng khiếp. Anh cũng như em đều biết rõ là Olivia rất thông minh. Còn vượt trội hơn nhiều so với hầu hết cánh đàn ông đang xúm xít quanh cô ấy.”



Anh quan sát cô bằng ánh mắt bao dung. Cô đúng là cô gái bé nhỏ trung thành. Anh không nghi ngờ gì việc cô sẽ đỡ đạn cho Olivia nếu cần thiết. Thật tốt khi cô ở đây. Ngoài khuynh hướng điềm đạm cô mang đến cho em gái anh - và anh ngờ là cả gia đình Bevelstoke nợ cô một lời cảm ơn sâu sắc vì điều đó - anh thật sự chắc chắn Miranda là điều duy nhất sẽ khiến cho quãng thời gian của anh ở London trở nên dễ chịu. Có Chúa chứng giám, anh không muốn đến đây một chút nào. Dù sắp đến ngày tận thế thì anh cũng không cần những phụ nữ gắng mồi chài mình hòng cố gắng lấp đầy chỗ trống khốn khổ của Leticia. Nhưng có Miranda bên cạnh, ít nhất anh cũng yên tâm là những cuộc nói chuyện sẽ diễn ra lịch sự đúng đắn.



“Dĩ nhiên Olivia thông minh,” anh nói bằng giọng xoa dịu. “Cho phép anh trình bày lại. Cá nhân anh sẽ không thấy con bé hấp dẫn.”



Cô mím môi, nữ gia sư đã trở lại. “Em nghĩ đó là quyền của anh.”



Anh cười và khẽ cúi xuống. “Anh nghĩ có khả năng anh sẽ tìm đến bên em đấy.”



“Đừng có ngớ ngẩn,” cô làu bàu.



“Không hề,” anh cam đoan. “Nhưng anh già hơn hầu hết những gã ngốc đang theo đuổi em gái mình. Có lẽ cái gu của anh đã chín chắn hơn. Nhưng anh cho là điều này cũng chỉ đúng tương đối thôi, vì anh giờ không phải là một công tử trẻ mà cũng chẳng nhặng xị quanh đám các tiểu thư mới trình diện năm nay.”



“Và anh không định kiếm một cô vợ.” Đó là lời tuyên bố, không phải một câu hỏi.



“Chúa ơi, không,” anh bật thốt lên. “Anh làm cái quái gì với một cô vợ chứ?”



2 THÁNG SÁU 1819



Trong bữa sáng, Phu nhân Rudland tuyên bố rằng vũ hội đêm qua là một thành công xuất sắc. Mình không thể không mỉm cười trước cách lựa chọn từ ngữ của bà, mình không nghĩ lại có ai từ chối lời mời của bà, và mình thề là từ bé đến giờ mình chưa từng thấy căn phòng nào đông đúc như phòng vũ hội tối qua. Tất nhiên là mình bị choáng váng trước tất cả những con người xa lạ hoàn hảo đủ loại ấy. Mình thành thực tin mình là gái quê toàn diện, bởi mình không chắc là mình muốn gần gũi với người bạn đời của mình.



Lúc ăn sáng mình đã nói như vậy, và Turner bị sặc cà phê. Phu nhân Rudland lườm anh một cái chết người, nhưng mình thì không thể tưởng tượng được là bác ấy lại yêu mấy tấm khăn lanh trải bàn đến thế.



Turner định lưu lại London có một hai tuần gì đấy, anh đang ở cùng mọi người trong dinh thự Rudland, điều này vừa thích lại vừa khủng khiếp.



Phu nhân Rudland thông báo rằng một bà góa già kỳ quặc nào đó (theo lời bác ấy nói, không phải mình nói, và bác ấy tuyên bố sẽ không tiết lộ về bà góa kia trong bất cứ trường hợp nào) nhận xét rằng mình đang cư xử Quá Thân Mật với Turner và rằng người khác có thể sẽ Hiểu Nhầm.



Bác ấy kể bác ấy đã bảo với con-cá-tuyết (cá tuyết chứ! thật thông minh!) ấy rằng thực tế thì Turner và mình chỉ như anh trai em gái, và việc mình trông cậy vào anh trong buổi vũ hội ra mắt của mình cũng là lẽ tự nhiên, và rằng chả có ai Hiểu Nhầm gì ở đây cả.



Mình tự hỏi không biết liệu ở London người ta đã từng Hiểu Đúng bao giờ chưa.