Nhất Phẩm Giang Sơn

Chương 7351 : Đông

Ngày đăng: 01:25 20/04/20


‘Cách vật” chính là truy đến cái lý cuối cùng của sự vật. Cho rằng trên từ vũ trụ thiên địa dưới đến những vật nhỏ như cọng cây ngọn cỏ hay côn trùng nhỏ nhất, đều có “lý”, cũng cần phải “cách”, “lý” của vật hiểu càng sâu, ta cũng sẽ hiểu được càng rộng. Từ “Cách vật” đến chí tri có một quá trình tích lũy từng chút một cho tới khi thông suốt.



Muốn thông suốt, nhất định phải bỏ công, “Cách” một vật, “Lý”một chuyện, đều phải đi tới tận cùng, từ gần đến xa, từ nông đến sâu, từ thô đến tinh. Bác học, tra vấn, suy nghĩ, phân biệt, chia làm tứ lễ, lần lượt tiếp nhận, từng lớp tiếp nhận mà cầu đạo lý.



Cái gọi là “ cùng lý phải truy đến cùng” (Cùng lý), vỏ bên ngoài là biểu, thấy tới mức sâu sắc là lý. Mỗi người nhất định phải trải qua quá trình nhận thức từ ngoài vào trong mới có thể nhìn thấy rõ “lý”.



Xét về phương pháp luận, cơ bản đều là quan điểm của Chu Tử, Trần Khác gần như rập khuôn nguyên mẫu. Nhưng ở vào thế giới khác nhau, phương pháp luận này cũng sẽ có giới hạn nhất định với lý học Trình Chu, biến thành “Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, vận dụng lối suy nghĩ lý tính, từ hiện tượng mà rút ra lý luận, lấy thực tiễn kiểm nghiệm lý luận. Trải qua quá trình như vậy sẽ đạt được lý”.



Khi ngươi hiểu được “Lý” của vạn vật rồi, có thể từ trong “lý” mà thăng hoa xuất đạo.



Khi ngươi nhận thức được đạo, thì mọi sự vạn vật trong mắt ngươi đều không có bí mật gì nữa, ngươi đã tu thành đạo.



“Tắc duy thiên hạ chí thành, năng tận kỳ tính; năng tận kỳ tính, tắc năng tận nhân chi tính; năng tận nhân chi tính, tắc năng tận vật chi tính; năng tận vật chi tính, tắc khả tán thiên hạ chi hóa dục; khả dĩ tán thiên hạ chi hóa dục, tắc khả dĩ dữ thiên địa tham hĩ...”

(chỉ có những bậc thánh nhân trong thiên hạ mới có thể hiểu được trọn vẹn bản tính của mình; có thể hiểu biết trọn vẹn bản tính của mình mới có thể hiểu biết trọn vẹn bản tính của người; có thể hiểu biết trọn vẹn bản tính của người mới có thể hiểu biết trọn vẹn bản tính của vật; có thể hiểu biết trọn vẹn bản tính của vật rồi mới có thể giúp vào việc nuôi dưỡng chuyển hóa đất trời’ có thể giúp vào việc nuôi dưỡng chuyển hóa đất trời mới có thể cùng tham dự với đất trời.

Học thuyết này của Trần Khác có thể nói là vì đứng trên vai người khổng lồ, một câu đã hoàn chỉnh tinh tế, khiến người ta tin phục.



Cộng thêm hình tượng kinh học đại sư hắn đã xây dựng nên, cho nên hắn chỉ cần giảng một chương “Trung dung” ở Kinh Diên đã nhận được hưởng ứng mãnh liệt.



Năm ngoái hắn nghiên cứu “Thượng thư” là Ngụy kinh, các sĩ phu liền chỉ xem hắn là chí sĩ tài hoa học vấn uyên bác, hiểu rõ sâu sắc. Năm nay, nghe hắn giảng về “Trung dung” mới biết hóa ra sau khi Đại Tống triều kế thừa Đạo học, Tân học, lại ra đời một học thuyết nữa, lại sinh ra một gã đại Nho!



Hơn nữa, học thuyết này một khi được xuất bản, lại là một học thuyết đầy đủ như thế, tính khả thi như thế, vượt xa những học thuyết vẫn còn đang mò mẫm lắp ghép chưa hoàn thiện kia.



Chỉ có điều, Trần Khác thật sự còn quá trẻ, khiến các sĩ phu thật sự không thể chấp nhận, mấy đời người đau khổ tìm thừng mà không ra, nhưng bị tiểu tử không đến ba mươi tuổi này nói toạc ra rồi.



Vì thế, nghi vấn che trời phủ đất kéo đến, rất nhiều là phản đối chỉ vì phản đối, kết quả Kinh Diên nửa sau, thành ra cảnh tượng Trần Khác vì bảo vệ học thuyết của mình mà khẩu chiến Nho đàn.



Nhưng mặc kệ nói thế nào, ai cũng phải thừa nhận, trong Kinh Diên năm Gia Hữu thứ năm đã ra đời một học thuyết Nho gia tràn đầy sức sống. Sức sống mà nó ẩn chứa chắc chắn sẽ tấn công thế giới này!



Bởi vì Trần Khác xuất thân từ đất Thục, nên bình thường vẫn được gọi là “Thục học”, nhưng bản thân hắn muốn gọi là “Lý học” hơn. Thứ nhất, là thể hiện sự kính trọng với Chu Tử. Thứ hai, đây vốn là trường phái học về đạo lý, gọi là Lý học là thỏa đáng nhất.



Kinh diên kết thúc chưa được nửa tháng, xã ấn thư Biện Kinh đã ban hành một nghìn đầu sách “Tập chú đại học chương cú” và “Tập chú trung dung chương cú”, những cuốn sách này ngay sau đó nhanh chóng được xếp lên hàng nghìn các giá sách ở Biện Kinh, Lạc Dương, Hàng Châu, Ngạc Châu, Dương Châu hơn nữa tất cả đều được đặt ở những vị trí bắt mắt nhất.



Tốc độ in ấn của xã thư ấn Biện Kinh quá nhanh, chất lượng in ấn cao, phí in ấn cũng rất thấp, nên đã chiếm được hơn bảy mươi phần trăm các ấn xã tại Biện Kinh, tạo thành một dây chuyền in ấn cao cấp với bảy nghìn công nhân, chiếm hơn chín mươi phần trăm thị phần tại Biện Kinh, và chiếm trên sáu mươi phần trăm nghiệp vụ xuất bản cả nước.



Cho nên những cửa hàng sách này phải đổi mới, nếu không sẽ phải ngoan ngoãn nghe theo yêu cầu của các nhà xuất bản lớn.



Thực ra đây không phải là ý tưởng của Trần Khác, mà là những môn hạ của hắn nịnh bợ mà thôi. Theo ý của Trần Khác, trước tiên in với số lượng là hai mươi nghìn quyển, rồi dần dần bán ra, nếu xảy ra vấn đề gì, tự mình cũng có thể chỉnh lý.



Như thế mới tốt, chỉ trong mấy ngày, hai cuốn “Tập chú đại học chương cú” và “Tập chú trung dung chương cú” đã được ban hành khắp năm sông bốn bể. Nơi đâu cũng có, tiếng tăm lừng lẫy khắp nơi.



Trước hết dĩ nhiên đều được ca ngợi tán dương. Bởi vì lý học của Trần Thị cũng là một môn triết học tinh thông, học vấn như thế được bày ra trước mắt bạn, bạn dù có không tin cũng không thể không bái phục. Bởi vì từ thời Tiền Tần nền văn hóa của Trung Quốc sau khi bị gián đoạn, triết học vẫn là một bộ môn chưa được hình thành một cách đầy đủ. Đối với học thuyết Hán Nho, tư tưởng của đạo Phật sau khi không còn phù hợp, mọi người rất cần một hệ tư tưởng có thể dẫn lối cho họ.



Nhưng cũng chính bởi vì trải qua quá nhiều thất bại, nên bọn họ không còn tin vào bất kỳ học thuyết nào nữa, sau bao nhiêu thắc mắc thì mới có thể dần dần tiếp nhận nó.



Vì vậy cả mùa đông tại nhà của Trần Khác, trước các cửa viện võ học đều đông nghịt môn sinh, học giả tới lãnh giáo, bái sư, chất vấn. Thậm chí có người từ Quảng Đông cũng lặn lội đến, chỉ để nói vài câu phỉ nhổ… Dĩ nhiên, những người như thế đều là những người cá biệt.



Trần Khác chỉ có thể giải thích những thắc mắc đó trong một khoảng thời gian nhất định, thậm chí phải lập luận. Cả ngày đều bị truy vấn như vậy, cho dù người hắn làm bằng sắt đi nữa cũng không thể tiêu nổi, cuối cùng đành phải tuyên bố, cứ năm ngày một lần, trong giảng võ đường tại viện võ học, chỉ tập trung một nhóm người tới bái lĩnh.



Giảng võ đường là học viện võ học hoàng gia, giống như lễ đường sau này. Giảng đường mới được xây bằng bê tông và xi măng, có thể chứa được tối đa hơn hai nghìn người. Được trang bị thiết bị khuếch đại âm thanh đầu tiên, phục vụ các buổi học tại học viện võ học.



Trần Khác tập trung những người này lại, lợi thế lớn nhất chính là có thể tránh trả lời những câu hỏi trùng lặp. Trên thực tế, hắn mỗi ngày trả lời hết lần này đến lần khác, quanh quẩn cũng chỉ mười mấy vấn đề như thế.



Ví dụ như :

- Ngài nói phải tìm hiểu cặn kẽ các nguyên lý, như vậy còn thánh nhân thì sao? Lẽ nào chúng ta chỉ cần tìm hiểu mà không cần học tập thánh nhân sao?



Trần Khác đáp lại rằng:

- Đương nhiên không phải, không có thánh nhân chỉ dẫn, ngươi nghiên cứu như thế nào? Tu thân, hay nghiên cứu tới cái vô cùng của sự vật, đều phải làm theo lời thánh nhân dạy bảo!



Lại có người hỏi:

- Ngài nói “Thế giới vạn vật là thực tại, những nhà lý luận trong các phân ngành phân loại đều có thể nhập đạo”, lẽ nào tôi nghiên cứu về cây cỏ cũng coi là nhập đạo?



- Lý có ngàn vạn, nhưng đạo chỉ có một.

Trần Khác nói:

- Đạo ẩn chứa trong vạn vật, cho nên trong mỗi cái lý lại bao hàm một bộ phận của đạo. Thường thì phải nghiên cứu đến cùng những quy luật của vạn vật, mới có thể đạt tới đạo. Nhưng con người có trí tuệ, có thể tổng kết lại quy luật, có thể học một biết mười. Cho nên ngươi chỉ cần chuyên tâm nghiên cứu cặn kẽ ngọn nguồn của một loại nguyên lý, cũng có thể coi đã chạm được tới đạo rồi.



- Như vậy có thể phân ra thành những loại nào?



- Nhiều lắm, ví dụ như triết học, văn học, võ học, phật học, đạo học, sử học, y học, nông học, công học, toán học, tử vi số học, thiên văn học, địa lý học, quân sự học, động vật học, thực vật học…



- Chẳng lẽ nông dân cũng có thể đắc đạo?

Đây có thể là điều làm cho các sĩ phu cảm thấy khó chịu, bọn họ đòi hỏi sự ưu việt trong đó.



- Trên lý luận là như vậy, nhưng phải có kiến thức uyên thâm về nông học, như thế mới gọi là đắc đạo, ngươi đã trị được tất cả các bệnh do sâu hại chưa? Nếu phòng trừ được tất cả các loại sâu bệnh hại, thì còn phải có kỹ thuật làm vườn, trồng rừng, nuôi tằm, chăn nuôi, bác sỹ thú y, lai giống, sản xuất, nấu nướng, dự trù, cùng với các phương pháp chống bỏ hoang, cũng phải nắm vững như lòng bàn tay.
- Ây,

Triệu Tòng Cổ thở dài nói:

- Ta hỏi ngươi một câu, nếu tồn tại nhiều vấn đề như vậy, sao không sớm bẩm báo?



- Cái này…

Giáp Đản trán đẫm mồ hôi nói:

- Bởi vì bọn họ không làm trái với chương trình đã định ra lúc đầu, mà trong khi đo đạc thử nghiệm mới phát hiện ra, bản thiết kế có chút vấn đề…



- Cho nên ngươi để việc xảy ra rồi mới nói với ta?

Triệu Tòng Cổ tối sầm mặt lại…



Cho dù Giáp Đản ra sức phản đối, nhưng chẳng khác nào trứng chọi với đá, đê lớn cũng phải đến tháng chạp mới hợp long (nối lại).



Ngự sử và các quan bộ Công phụ trách nghiệm thu, trong bản tấu cũng hết lời khen ngợi, nào là công trình phòng thủ kiên cố, có thể đạt tuổi thọ một trăm năm. Triệu Trinh nghe vậy vô cùng vui mừng, trọng thưởng cho những người có công, dưới lời đề nghị mạnh mẽ của các đại thần, cùng với tinh thần không quản khó khăn gian khổ, cần cù chính trực vì dân vì nước, lão đã phong cho Triệu Tông Thực làm quận vương Khánh Lăng.



Y là người đầu tiên trong số năm người con của hoàng thượng được phong vương giả, điều này đương nhiên khiến đám người của Triệu Tông Thực vui mừng phát cuồng lên, bọn họ đều cho rằng đường đi từ nay về sau sẽ bằng phẳng hơn. Nhưng chỉ có một việc không được thuận lợi lắm, đó là chỉ sau đó đúng hai ngày, Triệu Tòng Cổ nhờ có công trong việc giám sát công trình nên cũng được phong quận vương Nam Khang.



Cũng may bất luận thế nào đi nữa phần nước canh đầu cũng bị y ăn mất rồi, Triệu Tông Thực còn được biết Triệu Tông Tích ở nơi rừng sâu nước độc, núi cao hiểm trở tại Lĩnh Nam phải khổ sở vật lộn với bọn người man rợ Ấp La… Nghe nói đám người Ấp La này vô cùng giảo hoạt, quan quân tiến đánh, bọn chúng lại lùi sâu vào trong địa phận của mình, đợi cho quan quân sau khi rút về, lại kéo nhau trở ra. Nửa năm trôi qua, quân đội của triều đình cũng đã thấm mệt không thể chịu nổi, liền rút về Ung Châu dưỡng sức.



Nghĩ tới Triệu Tông Tích giây phút này đang phải bó tay không biết làm thế nào, chí khí ngày một hao mòn, trên khóe miệng của Triệu Tông Thực nở một nụ cười đắc chí.



Tuy nhiên Tết âm lịch năm Gia Hựu thứ sáu này, khuôn mặt tươi cười của y cũng chẳng thể tự đắc mãi được, bởi vì quân thần Đại Tống đều rơi vào trạng thái tâm tư này.



Bởi vì vị tể tướng cấp cao của tây Hạ là Một Tàng Ngoa Sủng gặp phải một chuyện lớn… Câu chuyện bắt đầu từ năm Gia Hựu thứ tư, Tư Mã Quang có “Bản tấu bàn luận về vấn đề muối giải và muối thanh” (*), trong bản tấu này gã đã đưa ra các giải pháp hạ thấp giá muối, chấm dứt nguồn lợi của Tây Tạng nhờ muối, những kiến nghị này vừa được đưa ra đã nhận được nhận được sự quan tâm mạnh mẽ từ cấp trên.



(*) Muối giải: muối lấy từ hồ Giải ở tỉnh Sơn Tây.

Muối thanh: muối lấy từ tỉnh Thanh Hải, nơi đây được xưng là “thế giới của muối”, còn gọi là muối mỏ



Quân thần Đại Tống đều là những người yêu thích hòa bình, nếu giải quyết được vấn đề mà không cần đánh trận thì bọn họ tán thành cả hai tay, nhanh chóng bổ nhiệm Tiết Hướng thay thế cho Phạm Tường làm Phán quan chi độ, Phó sứ chuyển vận tuyến Thiểm Tây kiêm Chế trí giải diêm sử toàn quyền phụ trách việc này.



Lúc này giá muối thanh ở Tây Hạ rất thấp. Muối thanh được đem trộn cùng với một số loại muối buôn lậu khác, sau đó đem bán tại các vùng biên giới nước Tống, hơn nữa quan phủ Đại Tống độc quyền về muối giải khiến giá muối đắt đỏ, cho nên dân chúng thường mua muối thanh lậu của Tây Hạ mà không mua muối của quan phủ, khiến cho muối tồn ứ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc sản xuất muối giải và tài chính của quốc gia. Sau khi Tiết Hướng nhận chức, giá muối giải giảm mạnh, thời điểm rẻ nhất chỉ bán được một phần mười ban đầu, rẻ hơn một nửa so với muối thanh.



Đồng thời, do số lượng sản xuất muối giải quá lớn, lượng sản xuất muối mỗi năm luôn vượt quá nhu cầu, cho nên muối giải ở các khu vực như Thiểm Tây, Hà Đông chưa bán ra vẫn có thể cung cấp đủ trong mười năm. Trong bản báo cáo của Tiết Hướng có nói, giá muối giải chỉ giảm xuống một năm, sau một năm, xem tình hình thế nào mới bàn tiếp được.



Vì thế trong vòng nửa năm số lượng tồn kho tiêu thụ gần như đã hết, dân chúng nhà nào cũng tích trữ muối, chí ít trong vài năm cũng không phải mua nữa.



Việc này có thể gây tổn hại cho một số thương nhân buôn lậu muối, rất nhiều người mất cả chì lẫn chài. Trong lúc nhất thời, cũng không có người nào dám mạo hiểm, cảnh buôn lậu muối không còn thấy tiếp tục tái diễn nữa. Tới năm Gia Hựu thứ năm, nguồn muối thanh từ Tây Hạ bị đoạn tuyệt khiến vật tư trong nước thiếu hụt, Một Tàng Ngoa Sủng buộc phải điều binh đoạt lại các vùng xung quanh, nhưng lại bị quân Tống bày binh bố trận đánh lui.



Đến mùa đông năm Gia Hựu thứ năm, Tây Hạ lại gặp phải nạn tuyết rơi nhiều chưa từng thấy trong một trăm năm qua, làm cho vố số gia súc bị chết cóng, các lĩnh vực khác cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nỗi căm giận trong lòng Một Tàng Ngoa Sủng bốc lên ngút trời... Bởi vì nếu các cuộc mua bán này diễn ra, thì số gia súc này sớm đã được bán cho người Hán, người dân Tây Hạ có thể đổi lấy trà, bột mỳ, áo bông, chăn bông, trú đông trong lều trại thoải mái hưởng thụ như một con mèo, thế có phải tốt hơn không?



Nhưng các chợ giao dịch đều bị đóng cửa, không thể nào thông thương với Đại Tống! Hết thảy mọi chuyện này đều quy tội cho lão! Nếu không phải là vì lợi ích cá nhân mà phái quân xâm chiếm đất đai vùng phía tây sông Khuất Dã của đại Tống, sau đó đổi thành đất canh tác của gia tộc Một Tàng, thì sao có thể dẫn đến tình cảnh như hôm nay?



Càng làm cho người thêm phẫn uất, nếu lão vì Tây Hạ mở mang bờ cõi, mọi người cũng sẽ không bàn luận gì, nhưng phần đất mà lão xâm chiếm cũng chỉ có mấy mươi dặm mà thôi… Chỉ vì phần bằng đầu ngón tay này mà không để ý đến tình nghĩa giữa hai nước, mạch sống của bách tính Tây Hạ, điều này không biết phải mất bao nhiêu trí óc mới có thể đền bù lại được.



Người ngu xuẩn tất nhiên phải trả giá vì chính những hành vi ngu xuẩn của mình, bọn quý tộc Tây Hạ hận Một Tàng Ngoa Sủng tới cực điểm, và đã có một người nhìn thấy được cơ hội này



Đó chính là con của Lý Nguyên Hạo, Lý Lượng Tộ đã được đăng cơ ngay từ khi còn trong tã lót.



Lý Lượng Tộ từ nhỏ khá may mắn, vốn dĩ không đến lượt y làm hoàng đế. Nhưng hoàng huynh của y Ninh Lệnh Ca đã chém đứt cái mũi của cha y, khiến cho cha y bị trọng thương không thể cứu chữa được. Ninh Lệnh Ca chỉ vì bị Một Tàng Ngoa Sủng xúi giục mà bị khép vào tội chết dám hành thích vua, sau đó Một Tàng thị liền bế Lý Lượng Tộ mới một tuổi đăng cơ làm hoàng đế nước Tây Hạ.



Mới có năm trước, vị hoàng đế này tại vị được mấy năm thôi cảm thấy cuộc sống quá buồn chán, nhưng không có cách nào, ai bảo y còn quá nhỏ, lại chịu sự chấp chính của mẹ và cậu nữa?



So với thái hậu Đại Tống, thái hậu nước Liêu, Tây Hạ rõ ràng sướng hơn nhiều. Tiêu Yến Yến của nước Liêu có thể công khai sống chung với nhân tình, còn lấy lễ cha để gặp hoàng thượng, điều này người Hán nghe dĩ nhiên không thể tưởng tượng nổi.



Nhưng ở phương diện tìm đàn ông, so với vị thái hậu họ Một Tàng này, thì thái hậu họ Tiêu danh tiếng lẫy lừng kia quả thực còn kém lắm. Dù sao thì Hàn Đức Nhượng cũng là người tình cũ của Tiêu Yến Yến trước khi làm hoàng hậu, vẫn có thể coi như hai người ôn lại tình xưa nghĩa cũ. Còn vị thái hậu Một Tàng của Tây Hạ này lại có sở thích không biết mỏi mệt đối với nam sắc, thị vệ bên cạnh bà ta đều là những người có thân hình khỏe mạnh, dung mạo tuấn tú, và đều được bà ta sủng ái.



Trong mười năm làm thái hậu, Một Tàng thị đêm đêm đều trở thành cô dâu, làm không biết chán. Nhưng đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma, cũng có ngày gặp báo ứng. Cuộc sống kiều diễm của nàng ta lại bị hủy trong tay một tên tiểu tình nhân.



Tên tình nhân đó là Lý Thủ Quý, quan tài vụ chồng trước của nàng. Người này có chút thú vị, nhưng chỉ là một tên quan thu chi nhỏ, lẽ ra có thể có thể ngủ một đêm với nữ nhân của Lý Nguyên Hạo và chủ nhân trước, cũng nên tự cho đó là mãn nguyện rồi? Ai ngờ sau khi bị Một Tàng thị bỡn cợt, gã bị tổn thương…



Một Tàng thị, ngươi sao lại có thể phản bội ta, phụ lòng người nhất định phải chết!



Vì thế lần này một màn kịch tàn khốc ở cung đình lại tái diễn rồi. Một lần nọ, Một Tàng Thị và tình nhân hiện tại trên đường đi săn thú ở núi Hạ Lan, Lý Thủ Quý đã dẫn người chặn giữa đường truy sát, giết chết thái hậu của Tây Hạ và tình nhân của ả…



Sau khi Một Tàng thị chết, Một Tàng Ngoa Sủng giết chết cả nhà Lý Thủ Quý, sau đó khống chế tiểu hoàng đế, gả con gái của mình cũng là em họ của Lý Lượng Tộ cho y.



Tiểu Một Tàng thị sau khi làm hoàng hậu, hoàn toàn không để hoàng thượng trong mắt, cả ngày mách lẻo với cha, cũng không cho Lý Lượng Tộ liếc mắt đưa tình với các cung nữ khác, cuộc sống của tiểu hoàng đế chỉ cần nghĩ tới thôi cũng đã rõ.



Hơn hai mươi năm trước, Triệu Trinh cũng gặp phải tình huống như vậy, ông vẫn nhẫn nhục chịu đựng tới khi Lưu Nga qua đời, nhẫn nhục mãi cuối cùng không chịu đựng được nữa mới phế nàng ta. Cho nên nói, chẳng những hoàng hậu của Đại Tống không sánh bằng hoàng hậu của Tây Hạ, mà ngay cả hoàng đế của Đại Tống cũng không bằng hoàng đế của Tây Hạ. Lý Lượng Tộ không hổ là dòng máu của Lý Nguyên Hạo và Một Tàng thị. Dưới cơn nóng giận, bản tính bừng lên, kế thừa những truyền thống tốt đẹp của cha mẹ, lén lút qua lại với con dâu của cậu mình!



Có lẽ ở Tây Hạ, hiện tượng này xảy ra thường xuyên như uống nước ăn cơm vậy, Một Tàng Ngoa Sủng cũng không để ý tới con dâu mình có ngoại tình với cháu ngoại. Dù sao Lý Lượng Tộ mới có mười ba tuổi, chưa đủ lông đủ cánh, có thể ngoại tình được sao? Xem ra chỉ là muốn tìm kiếm tình thương của mẹ thôi.