Nụ Hôn Của Casanova

Chương 1 :

Ngày đăng: 14:54 19/04/20


Những tội ác hoàn hảo



Casanova



Boca Raton, Florida, tháng 6 năm 1975



Đã ba tuần nay, gã sát nhân trẻ tuổi sống trong những bức tường của ngôi nhà ven biển rộng khác thường với 15 phòng cả thảy.



Mặc cho tiếng sóng Đại Tây Dương vỗ ì ầm bên ngoài, hắn chẳng thèm đoái hoài đến việc ngắm biển cũng như bãi biển riêng với bờ cát trắng xoá trải dài gần trăm mét. Có quá nhiều thứ để khám phá, để tìm hiểu, để thực hiện từ nơi ẩn náu trong ngôi nhà được trang hoàng rực rỡ theo phong cách Địa Trung Hải tại Boca. Mấy ngày nay, hắn cứ kích động không yên.



Bốn người sống trong ngôi nhà bề thế này gồm có vợ chồng Michael, Hannah Pierce và hai cô con gái. Tên sát nhân đã theo dõi gia đình này theo cách kín đáo nhất, vào những khoảnh khắc riêng tư nhất của họ. Hắn thích thú mọi chi tiết nhỏ nhặt của gia đình Pierce, đặc biệt là bộ sưu tập vỏ sò hết sức tinh tế của Hannah và hạm đội thuyền buồm bằng gỗ tếch khá ngộ nghĩnh treo trên trần một căn phòng khách.



Hắn ngắm nhìn cô con gái lớn Coty cả ngày lẫn đêm. Cô học cùng hắn tại trường trung học St. Andrew. Cô thật quyến rũ. Không em nào trong trường lại xinh đẹp và thông minh bằng Coty. Hắn cũng luôn để ý đến Kerrie Pierce. Mới 13 tuổi nhưng nó đã rất phổng phao.



Với chiều cao hơn một mét tám, hắn vẫn có thể dễ dàng chui vừa vào ống dẫn của máy điều hoà. Hắn gầy như que tăm và chưa bao giờ béo lên. Tên sát nhân đẹp trai theo kiểu nam sinh miền Đông.



Ở hang ổ bí mật của hắn có vài cuốn tiểu thuyết đồi truỵ cùng những cuốn sách khiêu dâm hạng nặng mà hắn tìm thấy trong những đợt mua sắm điên cuồng tại Miami. Hắn chìm đắm trong Câu chuyện của O, Nữ sinh ở Paris và Đánh thức nhục cảm. Hắn cũng luôn mang bên mình một khẩu súng lục ổ quay Wesson và Smith.



Hắn ra vào ngôi nhà qua một cửa sổ hai cánh bị hỏng chốt ở hầm rượu. Thi thoảng hắn cũng ngủ luôn tại đó, đằng sau cái tủ lạnh Westinghouse cũ kỹ kêu rầm rì, vốn là nơi cất trữ bia và soda thừa trong mỗi dịp tiệc tùng linh đình của gia đình nhà Pierce thường kết thúc với màn đốt lửa trại trên bãi biển.



Thực sự mà nói thì vào đêm tháng Sáu đó, hắn cảm thấy hơi kỳ lạ nhưng cũng chẳng có gì để lo lắng. Không vấn đề gì.



Khi trời bắt đầu sẩm tối, hắn dùng tay vẽ lên cơ thể mình những sọc sáng và điểm thêm các đốm màu đỏ anh đào, cam, vàng catmi. Hắn là một chiến binh; một tên thợ săn.



Hắn dồn khẩu súng lục mạ crôm sáu ly, đèn pin, những quyển sách cấm để trên trần phòng ngủ của Coty lại, có thể nói là ngay trên đầu cô.



Đêm nay là đêm hành động. Là thời điểm bắt đầu tất cả mọi thứ có ý nghĩa trong đời hắn.



Hắn ngồi xuống và bắt đầu đọc lại đoạn ưa thích trong cuốn Nữ sinh Paris. Ánh đèn pin bỏ túi chiếu sáng lờ mờ trên trang sách. Cuốn sách vừa đích thị là một tác phẩm kiêu dâm, vừa là một thứ rác rưởi. Câu chuyện kể về một luật sư người Pháp đầy tôn kính đã trả tiền cho bà hiệu trưởng béo mầm để qua đêm tại một trường nội trú ngon nghẻ của nữ sinh. Câu chuyện đầy rẫy ngôn tình rẻ tiền: “đồ chơi tình dục đầu mạ bạc”, “dương v*t hắn không chịu nằm yên”, “hắn giao hợp bằng miệng với những cô nữ sinh dễ dãi”.



Được một lúc, chán đọc, hắn liếc nhìn đồng hồ đeo tay, lúc này là gần 3 giờ sáng, đã đến lúc hành động. Tay run run khi bỏ cuốn sách xuống, hắn nhòm qua khe hở của tấm kim loại.



Hắn dường như nín thở khi nhìn thấy Coty đang nằm trên giường. Cuộc phiêu lưu bây giờ mới thực sự bắt đầu. Đúng như những gì hắn đã hình dung.



Hắn tận hưởng ý nghĩ: Cuộc sống đích thực của ta mới chỉ bắt đầu. Ta sẽ làm việc này thật ư? Đúng, ta phải làm!…



Rõ ràng hắn đã sống trong những bức tường ngôi nhà ven biển của nhà Pierce. Chẳng bao lâu nữa, một sự thật hãi hùng như ác mộng sẽ độc chiếm trang nhất mọi tờ báo lớn trên khắp đất Mỹ. Hắn nóng lòng muốn đọc tờ Tin tức Boca Raton.



GÃ THANH NIÊN SỐNG TRONG TƯỜNG!




Tay kia nó cầm một túi kẹo Gummi Bears. Nó lại chia cho mọi người như thường lệ. Tôi từ tốn ngậm một chiếc Gummi màu đỏ.



Jannie và Damon huýt sáo theo tiếng đàn, mặc dù đối với con bé, huýt sáo cũng chẳng khác gì phun phì phì vào một giai điệu có sẵn. Trên nóc chiếc piano là quyển truyện tranh Green Eggs & Ham nhàu nhĩ, rung lên theo từng nhịp đàn.



Cả Jannie và Damon đều biết dạo này tôi gặp trục trặc trong cuộc sống, ít nhất vài tháng gần đây. Chúng luôn cố gắng làm tôi vui. Chúng tôi chơi nhạc và huýt sáo theo những giai điệu blues, soul và cả thứ nhạc kết hợp, nhưng chúng tôi cũng cười vang và tỏ ra phấn khích như trẻ con.



Tôi yêu những lúc ở bên bọn trẻ hơn bất cứ lúc nào khác trong đời, tôi ngày càng dành nhiều thời gian bên chúng hơn. Những bức ảnh chụp bọn trẻ bằng máy Kodak luôn nhắc nhở tôi rằng các con tôi chỉ có một lần năm và bảy tuổi trong đời thôi. Tôi sẽ không để lỡ giai đoạn này.



Cuộc vui của chúng tôi bị ngắt quãng bởi tiếng chân chạy nặng nề trên cầu thang gỗ hiên sau. Và rồi tiếng chuông cửa reo: một, hai rồi ba hồi chuông nhỏ. Người ở ngoài kia dù là ai thì chắc hẳn cũng đang rất vội vã.



“Bing boong, mụ phù thuỷ đã chết.” Đúng lúc này, Damon lại chia sẻ suy nghĩ ngẫu hững của nó. Nó đeo kính râm ốp sát mặt, ra dáng anh chàng xì ngầu. Thực ra nó là một cậu nhóc xì ngầu.



“Không, mụ phù thuỷ chưa chết,” Jannie phản đối. Gần đây, tôi để ý thấy con bé bảo vệ khá quyết liệt giới tính của mình.



“Có khi đó không phải tin về mụ phù thuỷ đâu,” tôi nói gần như cùng lúc. Bọn trẻ cười phá lên. Chúng khá hiểu câu đùa của tôi, nghĩ mà thấy sợ.



Có ai đó liên tục đập vào khung cửa, hét gọi tên tôi một cách bi thương và hoảng hốt. Khốn thật, hãy để chúng tôi được yên. Chúng tôi không cần điều gì bi thương hay hoảng hốt trong cuộc sống của mình lúc này.



“Tiến sĩ Cross, hãy tới đây! Xin ông! Tiến sĩ Cross,” tiếng hét tiếp tục vang lên. Tôi không nhận ra giọng của người phụ nữ nhưng rõ ràng người đó gọi đích danh tôi bởi danh vị tiến sĩ.



Tôi bỏ bọn trẻ xuống, hai tay áp chặt lên khuôn đầu nhỏ xinh của chúng. “Bố là tiến sĩ Cross cơ mà, có phải hai con đâu. Cứ ngồi đây ngân nga và giữ chỗ cho bố nhé. Rồi bố sẽ trở lại ngay.”



“Rồi bố sẽ trở lại ngay!” Damon nhắc lại với giọng điệu của Kẻ huỷ diệt. Tôi phì cười với câu đùa của nó. Nó đúng là một đứa trẻ lớp hai láu lỉnh.



Tôi chạy nhanh ra cửa sau, đồng thời vớ lấy khẩu súng cảnh sát. Tình làng nghĩa xóm sẽ chẳng có nghĩa gì trong trường hợp này kể cả với một cảnh sát như tôi. Tôi nheo mắt nhìn qua tấm kính phủ đầy sương mù và bụi để xem ai đang đứng trên bậc hiên.



Tôi nhận ra cô gái đó. Cô ta sống trong khu ổ chuột Langley. Rita Washington, hai mươi ba tuổi, nghiện thuốc phiện và sống vật vờ trên đường phố như một bóng ma xám ngoét. Rita đủ khôn ngoan và xinh đẹp nhưng dễ bị dụ dỗ và lôi kéo. Cô ta đã lầm đường lạc lối, dần đánh mất vẻ ngoài xinh đẹp và bây giờ có lẽ còn đang gặp hạn.



Tôi mở cửa ra thì bị một luồng gió ẩm lạnh táp thẳng vào mặt. Máu nhỏ thành dòng từ cổ tay lẫn bàn tay của Rita và cả mặt chiếc áo choàng du lịch giả da màu xanh lá cây.



“Rita, có chuyện gì xảy ra với cô thế?” tôi hỏi. Tôi đoán cô ta đã bị bắn hoặc bị đâm liên quan tới ma tuý.



“Xin ông hãy đi cùng với tôi.” Rita Washington vừa ho khan vừa nức nở. “Là Marcus Daniels nhỏ bé,” cô ta nói và thậm chí còn khóc to hơn. “Thằng bé bị đâm! Nó hiện đang rất nguy kịch! Nó cứ gọi tên ông, nó muốn gặp ông, tiến sĩ Cross.”



“Các con ở đó nhé! Bố sẽ quay lại ngay.” Tôi hét lên át tiếng gào khóc cuồng loạn của Rita Washington. “Nana ơi, trông chừng bọn trẻ con nhé!” Tôi gào lên thậm chí còn to hơn. “Con phải ra ngoài có chút việc!” Tôi vớ lấy áo choàng rồi cùng Rita Washington bước ra ngoài dưới cơn mưa lạnh tầm tã.



Tôi tránh không giẫm lên những vết máu đỏ tươi nhỏ xuống như vệt sơn ướt trên khắp bậc hiên.