Percy Jackson Tập 1: Kẻ Cắp Tia Chớp

Chương 1 : Tôi trót làm cô giáo dạy đại số bốc hơi

Ngày đăng: 18:08 19/04/20


Nói thật nhé, tôi đâu muốn làm á thần!



Nếu khi đọc sách này, bạn cho rằng một nửa dòng máu chảy trong huyết quản mình thuộc về thần thánh, tôi khuyên bạn hãy đóng sách lại ngay đi. Hãy tin mọi lời dối trá về thân thế của mình từ cha mẹ và sống cuộc đời bình dị như bao người khác.



Mạng á thần như trứng treo đầu đẳng. Đáng sợ lắm! Cái chết đau đớn, kinh khiếp luôn theo sát gót họ gần như mọi lúc mọi nơi.



Nếu bạn là một đứa trẻ bình thường, bạn đọc cuốn sách này vì bạn nghĩ nó là một điều hư cấu, thì thật tuyệt. Tiếp tục đọc nó nhé! Tôi ganh tị với bạn vì bạn có thể giả vờ những chuyện trong cuốn sách này chưa bao giờ xảy ra.



Nếu thấy những gì tả trong sách này giống với mình quá, nếu thấy trực giác, linh tính không chịu ngủ yên, hãy ngừng đọc ngay vì có thể bạn giống chúng tôi. Nếu bạn biết, chẳng chóng thì chày chúng cũng đánh hơi thấy và tìm đến lấy mạng bạn.



Đừng trách tôi không báo trước nhé.



Tên cha sinh mẹ đẻ của tôi là Percy Jackson.



Tôi mười hai tuổi. Vài tháng trước đây, tôi còn là học sinh nội trú tại Học việc Yancy, một trường tư dành cho học sinh cá biệt thuộc khu vực thượng New York.



Tôi có phải là một cậu nhóc “cá biệt” không?



Có, ai cũng biết thế.



Mọi thời điểm trong quãng đời ngắn ngủi và đau khổ của tôi đều chứng minh điều đó. Nhưng mãi đến tháng Năm vừa rồi, mọi chuyện mới bắt đầu tệ hại không chịu nổi. Đó là lúc khối lớp Sáu chúng tôi đi tham quan ở Manhattan. Hai mươi tám nhóc tỳ tâm thần có vấn đề cùng hai giáo viên lên chiếc xe buýt vàng chóe nhắm Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan thẳng tiến. Các mẫu vật trưng bày có từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại là mục đích tham quan của ngày hôm đó.



Phải phải, nghe như sắp bị tra tấn vậy. Hầu hết những chuyến tham quan của Học viện Yancy đều thế cả.



Nhưng hôm nay, thầy Brunner dạy tiếng Latinh sẽ hướng dẫn học trò, thế nên lòng tôi tràn ngập hy vọng.



Thầy giáo tôi trạc tuổi trung niên ngồi xe lăn có gắn động cơ. Tóc thầy thưa mỏng, bộ râu quai nón không chăm chút thường xuyên và thầy thường mặc áo khoác cũ sờn ám mùi cà phê. Nhìn qua chẳng ai bảo thầy có gì thú vị nhưng ngược lại, trong giờ học thầy hay kể chuyện, nói đùa và cho học trò chơi nhiều trò bổ ích. Thầy còn có một bộ sưu tập tuyệt vời toàn vũ khí và áo giáp của người La Mã cổ. Vậy nên chỉ mỗi tiết của thầy là tôi không thấy buồn ngủ.



Tôi hy vọng buổi tham quan này suôn sẻ, hay ít nhất cũng không có sự cố gì xảy đến với tôi.



Nhưng hỡi ôi, đó chỉ là hy vọng hão huyền.



Hình như buổi tham quan hay dã ngoại nào tôi cũng gặp chuyện khóc dở mếu dở. Chẳng hạn, trong chuyến thăm chiến trường Saratoga hồi lớp Năm, tôi gặp tai nạn với khẩu đại bác có từ thời Chiến tranh Cách mạng. Thực lòng thì tôi không cố tình nhắm bắn xe buýt của trường. Nhưng dù thanh minh thế nào đi nữa thì tôi cũng bị đuổi học. Còn nữa, hồi lớp Bốn, khi chúng tôi được đến phía sau hậu trường của hồ cá mập ở Thế giới Đại Dương, tôi chẳng may chạm vào cần đòn bẩy trên lối đi hẹp khiến cả lớp phải tập bơi bất đắc dĩ. Chưa hết, trước đó tôi còn… Mà thôi, chắc các bạn đoán ra cả rồi.



Nhưng lần tham quan này, tôi tự hứa với lòng nhất định mình sẽ ngoan.



Suốt quãng đường xuống trung tâm, tôi nghiến răng chịu cảnh nhỏ Nancy Bobofit - mặt đầy tàn nhang, tính hay táy máy - cầm bánh kẹp bơ đậu phộng rưới xốt cà chốc chốc lại đập vào đầu Grover, bạn thân nhất của tôi.



Grover là con mồi ngon xơi của những đứa ngỗ ngược như Nancy. Thằng bạn chí cốt của tôi gầy nhẳng, lúc buồn bực chỉ biết khóc. Chắc chắn nó đúp vài năm rồi vì trong khối lớp Sáu, chỉ mình nó có mụn trứng cá và vài cọng râu thưa. Grover là trẻ tật nguyền. Nó có giấy được miễn học thể dục cả đời vì bị bệnh gì đó ảnh hưởng đến cơ chân. Dáng đi của nó vẹo vọ trông rất tội nghiệp, như thể mỗi bước chân đều làm nó đau đớn. Tuy nhiên, chớ thấy vậy mà tưởng lầm. Mỗi khi căn-tin có món bánh bột ngô nhân thịt, nhìn Grover chạy đua đến đó thì cứ gọi là lác mắt nhé.



Quay lại chuyến tham quan để đời hôm ấy. Nancy Bobofit điềm nhiên đều đặn ném mẩu vụn véo từ cái bánh kẹp vào mái tóc nâu xoăn tít của Grover. Chỉ lát sau, đầu nó dính chi chít đầy mẩu bánh nhỏ. Nhỏ Nancy biết tôi không làm gì được nó vì tôi đang trong thời gian bị theo dõi chặt chẽ bởi từng mắc lỗi trước đó. Trước lúc đi, thầy hiệu trưởng đe rằng tôi sẽ bị đuổi học thẳng thừng nếu gây bất cứ chuyện gì không tốt, làm mọi người xấu hổ hoặc đơn giản chỉ là chọc cười ai đó trong chuyến đi này.



Tôi lẩm bẩm:



- Tớ sẽ lấy mạng con nhỏ cho coi.



Grover cố trấn tĩnh:



- Không sao đâu mà. Tớ thích bơ đậu phộng.



Nó lanh lẹ né mẩu bánh từ tay Nancy vừa bay tới.



- Thế này thì quá lắm.



Tôi đã chực đứng dậy nhưng bị Grover kéo xuống ghế, đoạn nhắc:



- Đang trong thời gian quản chế, chắc cậu biết nếu có xô xát, ai là kẻ phải giơ đầu chịu báng rồi đấy!



Giờ ngẫm lại, tôi ước lần ấy mình hạ đo ván Nancy luôn cho xong. Bị cấm túc trong trường sau giờ học không nhằm nhò gì so với mối họa tôi sắp tự rước vào thân.



Thầy Brunner dẫn đầu đoàn tham quan.



Điều khiển xe lăn đi trước, thầy đưa chúng tôi qua mấy phòng trưng bày rộng thênh thang, đi qua mấy bức tượng tạc từ đá cẩm thạch và dãy tủ kính bày đầy đồ cổ bằng chất liệu gốm màu da cam pha màu đen.



Tôi cực kỳ ngạc nhiên: suốt hai ba ngàn năm qua, sao đồ gốm vẫn chưa bị bể nhỉ?!



Thầy Brunner gọi chúng tôi đến vây quanh cây cột đá cao gần bốn mét. Đầu cột có con nhân sư lớn và kể rằng nó vốn là bia của ngôi mộ cổ, nơi an nghỉ của một bé gái trạc tuổi chúng tôi. Thầy còn kể tỉ mỉ về những hình chạm khắc hai bên cột. Chuyện của thầy khá hay. Tôi muốn nghe lắm nhưng mấy bạn đứng gần cứ nói chuyện riêng hoài. Mỗi lần tôi bực mình quát bảo họ im miệng, cô Dodds đứng canh chừng gần đó lại lừ mắt cảnh cáo tôi.



Cô Dodds người nhỏ thó quê ở Georgia, dạy môn Toán. Dù đã năm mươi tuổi nhưng cô luôn mặc áo da màu đen. Cô nanh nọc và đanh đá, trông như lúc nào cũng sẵn sàng cưỡi xe Harley phân khối lớn đâm thẳng vào tủ đựng đồ của kẻ nào mà cô không ưa. Cô mới dạy chúng tôi được vài tháng do thầy Toán cũ của chúng tôi bị suy nhược thần kinh.



Ngay hôm đầu nhận lớp, cô Dodds đã quý Nancy và coi tôi là tên vô lại. Mỗi khi cô xỉa ngón trỏ cong như móc câu về phía tôi với giọng ngọt như mía lùi: “Nghe này cưng…”, y như rằng tôi bị phạt ở lại sau giờ học cả tháng.



Có lần, sau khi bị cô bắt ngồi đến tận nửa đêm gôm hết phần bài giải trong chồng sách bài tập toàn cũ, tôi bảo Grover: “Chắc cô Dodds không phải là người”. Nó nghiêm trang nhìn tôi, bảo:



- Cậu hoàn toàn đúng.



Thầy Brunner vẫn đang nói về nghệ thuật thể hiện trong cách tổ chức ma chay của người Hy Lạp cổ.



Giọt nước tràn ly đúng lúc Nancy cười khúc khích, nói câu gì đó về hình chạm người thanh niên trần truồng trên cột đá. Không chịu nổi, tôi quay xuống:



- Có câm mồm không thì bảo?



Tôi không chủ tâm quát to như thế.



Cả lớp cười ồ. Thầy Brunner ngừng kể, nói với tôi:
Vừa tung bút lên cao, thầy vừa hô to:



- Bắt lấy, Percy!



Lập tức, cô Dodds lăn xả vào tôi.



Hoảng hốt kêu to, tôi né sang một bên chỉ kịp nghe tiếng móng vuốt vụt trượt nghe vun vút ngay bên tai. Tôi chộp cây bút bi trên không trung nhưng khi chạm tay tôi, nó liến biến thành cây kiếm. Đó chính là cây kiếm bằng đồng mà thầy Brunner thường dùng trong những ngày thi.



Mắt long lên tàn độc, cô Dodds phóng vọt về phía tôi.



Đầu gối tôi bủn rủn, hai tay run bắn suýt làm rơi thanh kiếm.



Cô Dodds gầm lên:



- Cho mày chết này.



Dứt lời, cô lao thẳng vào tôi.



Cơn kinh hoàng hoàn toàn chế ngự tôi. Tôi chỉ làm đúng theo bản năng là vung kiếm lên.



Lưỡi kiếm sắc lẻm chém xả vai và xuyên qua người cô như thể thân xác cô làm từ nước.



Cô Dodds như lâu đài cát đặt ngay trước quạt công suất cực mạnh. Người cô nổ tung, biến thành bột màu vàng nghệ rồi tan biến ngay trước khi kịp rơi xuống. Dấu vết chẳng còn gì ngoài mùi trứng thối, tiếng kêu giãy chết và âm khí lạnh buốt. Tôi cảm tưởng cặp mắt vằn đỏ vẫn còn đâu đó trên cao đang trừng trừng nhìn tôi.



Chỉ còn mình tôi trơ trọi trong phòng trưng bày trống trải, quạnh quẽ.



Trong tay tôi có cây bút bi nhỏ.



Thầy Brunner biến mất. Ngoài tôi ra, xung quanh không còn ai khác.



Tay tôi run bắn. Chắc chắn đồ ăn trong bữa trưa của tôi bị nhiễm nấm gây ảo giác mất rồi.



Chẳng lẽ từ đầu đến cuối là do tôi tưởng tưởng ra sao?



Tôi trở ra phía ngoài.



Trời bắt đầu mưa.



Vẫn ngồi bên đài phun nước, Grover lấy sơ đồ viện bảo tàng che đầu cho khỏi ướt. Nancy Bobofit ướt như chuột lột sau khi vùng vẫy dưới hồ nước giờ vẫn đứng đó càu nhàu với mấy đứa bạn xấu ma chê quỷ hờn của nó. Vừa thấy tôi, nó bảo:



- Tao mong cô Kerr đánh cho mày tướp mông ra.



Tôi ngạc nhiên:



- Ai cơ?



- Thằng đần, cô giáo chứ còn ai.



Tôi chớp mắt lia lia. Trường tôi có cô giáo nào tên Kerr đâu nhỉ? Tôi hỏi Nancy rằng nó vừa nói nhăng nói cuội gì thế.



Nó tròn mắt nhìn tôi, tỏ vẻ chán nản, sau đó chẳng thèm trả lời câu hỏi của tôi.



Tôi hỏi Grover có thấy cô Dodds đâu không. Nó bảo:



- Ai cơ?



Tuy nhiên, nó hơi ngập ngừng và không dám nhìn thẳng tôi. Tưởng nó chòng ghẹo mình, tôi bảo:



- Đừng đùa nữa. Tớ hỏi nghiêm túc đấy.



Trên trời cao, tiếng sấm nổ rền.



Tôi thấy thầy Brunner ngồi bên trên bờ dốc dành cho người tàn tật, bên dưới cây dù màu đỏ. Thầy cắm cúi đọc sách như thể chưa hề nhúc nhích từ đầu buổi đến giờ.



Thấy tôi đến bên, thầy ngơ ngác nhìn lên:



- À, có phải cây bút của thầy không? Jackson này, lần sau đi học nhớ mang theo dụng cụ học tập nhé.



Mãi đến lúc thầy giật bút khỏi tay mình, tôi vẫn chưa nhận ra là mình đang cầm nó.



Tôi rụt rè:



- Thưa thầy, cô Dodds đâu rồi ạ?



Thầy mở to mắt nhìn tôi, vẻ không hiểu:



- Cô Dodds nào?



- Cô giáo đi cùng bọn em sáng nay ấy ạ. Cô Dodds dạy toán ấy.



Thầy nhíu mày ngồi thẳng lưng, nét mặt thoáng lo âu:



- Percy này, đoàn tham quan hôm nay không có cô Dodds nào cả. Còn nữa, thầy biết rõ mười mươi Học viện Yancy ta không có nữ giáo viên nào tên Dodds hết. Em có bị làm sao không vậy?