Percy Jackson Tập 1: Kẻ Cắp Tia Chớp

Chương 3 : Grover không mặc quần

Ngày đăng: 18:08 19/04/20


Đến lúc thú tội: Xe vừa vào bến, tôi đã bỏ rơi Grover tắp lự.



Tôi biết, tôi biết. Làm thế là quá đáng với bạn bè lắm lắm.



Nhưng Grover làm tôi sợ muốn chết. Nó nhìn tôi như thể tôi chết từ tám đời, miệng lẩm bẩm: “Biết ngay mà, lần nào cũng thế” và “Sao không ai trụ nổi cho đến hết năm lớp sáu?”



Tôi không còn lạ gì Grover. Bàng quang nó hoạt động trên mức bình thường mỗi khi chủ nhân lo âu. Thế nên tôi không ngạc nhiên khi vừa xuống xe buýt, nó bắt tôi hứa phải đợi nó trước khi te te chạy thẳng vào nhà vệ sinh. Thay vì chờ bạn, tôi lấy va li chuồn ra cổng đón taxi về khu Thượng Manhattan.



Tôi bảo tài xế:



- Khu đông, ngã tư đường một lẻ bốn và đưòng Hoàng Tử.



***



Trước khi giới thiệu độc giả với mẹ tôi, tôi xin có đôi lời.



Tên bà là Sally Jackson, người tốt bụng nhất trần đời và là minh chứng sống cho câu triết lý cửa miệng của tôi: Người hiền chẳng bao giờ gặp lành.



Mẹ tôi lên năm tuổi cũng là lúc ông bà ngoại tôi tử nạn vì máy bay rơi. Sau đó, bà được ông cậu mang về nuôi nhưng người đó chẳng thèm quan tâm gì đến cô cháu gái. Vì muốn làm tiểu thuyết gia, nên suốt thời gian học trung học, mẹ tôi vừa học vừa đi làm quần quật cốt dành tiền lên đại học dự khóa viết văn. Thế rồi ông cậu bị ung thư khiến mẹ tôi đang học lớp mười hai phải bỏ ngang để ở nhà chăm sóc cậu. Ít lâu sau, ông cậu mất bỏ lại mẹ tôi tứ cố vô thân, không tiền bạc, không bằng cấp.



Thời gian ngắn ngủi tươi đẹp nhất của mẹ tôi là lúc gặp cha tôi.



Tôi không nhớ tý gì về cha, ngoại trừ cảm giác ấm áp bao trùm. Có thể đó là dấu vết nụ cười ông dành cho tôi. Mẹ không muốn nhắc đến cha vì hễ đả động đến chuyện ấy, mẹ lại buồn vô hạn. Mẹ cũng không có lấy một tấm hình của ông.



Chắc bạn đọc cũng hiểu: cha mẹ tôi không cưới xin gì hết. Mẹ bảo cha giàu có và là yếu nhân. Quan hệ của họ được giấu trong vòng bí mật. Thế rồi một ngày kia, cha lên tàu vượt biển Đại Tây Dương trong một chuyến công du khẩn cấp và không bao giờ trở lại.



Mẹ bảo cha mất tích ngoài khơi. Không phải chết, chỉ mất tích thôi.



Mẹ xoay xỏa đủ mọi nghề, học bổ túc ban đêm lấy bằng tú tài và cố gắng nuôi tôi khôn lớn. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ phàn nàn hay nổi nóng, dù chỉ một lần. Nhưng tôi biết, tôi là một đứa trẻ chẳng dễ nuôi chút nào.



Cuối cùng, mẹ lấy dượng Gabe Ugliano, người chỉ đễ chịu trong ba mươi giây đầu gặp mặt, sau đó để lộ ngay bản chất là tay đểu cáng có hạng. Hồi còn bé tí, tôi đã gán cho dượng cái tên “Gabe Cóc Chết”. Xin lỗi vì tôi tả quá thực nhưng dượng Gabe hôi thật cơ. Người ông ta lúc nào cũng có mùi bánh pizza tỏi thiu ủ cả tháng trong quần đùi bẩn.



Làm trung gian hòa giải cho tôi và dượng, cuộc sống của mẹ khó nhọc thêm mấy phần: nào là cách Gabe Cóc chết đối xử với bà, nào là nỗi lo vì xung đột giữa cha dượng và con ghẻ có thể bùng nổ bất cứ lúc nào… Đơn cử là chuyện tôi về nhà là minh chứng hùng hồn cho điều đó.



***



Vừa bước qua ngưỡng cửa căn hộ nhỏ xíu, tôi vừa hy vọng mẹ đã đi làm về. Nhưng tôi sớm phải thất vọng vì trong phòng khách chỉ có dượng Gabe đang vui vẻ cùng đám bạn cờ bạc. Tivi mở kênh thể thao ESPN ồn ã. Vỏ bim bim và lon bia rỗng vương vãi khắp mặt thảm.



Chẳng buồn nhìn lên, dượng Gabe vừa cắn đầu điếu xì gà, vừa làu bàu:



- Mày về đấy à?



- Mẹ con đâu ạ?



- Đi làm. Mày có tiền không?



Thế đấy. Không hề có chuyện dượng niềm nở: “Vào nhà đi con. Mừng con dã trở về. Sáu tháng qua, con sống thế nào?”



Cha dượng tôi mập ra trông thấy. Trông ông ta giống con hải mã mú míp ních trong bộ quần áo mua ở cửa hàng đồ cũ. Đầu Gabe Cóc Chết chỉ còn ba cọng tóc lúc nào cũng chải mượt, vắt ngang qua đỉnh đầu hói bóng lưỡng như thể trông cho đẹp trai, bảnh chọe hay gì gì đó.



Dù quản lý gian hàng bán đồ điện tử Mega-Mart dưới khu Queens nhưng ông ta hầu như chỉ ngồi nhà. Theo tôi, đáng lẽ dượng phải bị đuổi việc từ lâu rồi mới phải. Ngược lại, dượng cứ lãnh lương tì tì để mua xì gà (thứ làm tôi buồn nôn) và tất nhiên, để uống bia. Lúc nào cũng thấy ông ấy nốc bia. Mỗi khi thấy mặt tôi ở nhà, dượng lại đòi tôi cúng tiền cho xới bạc. Gabe Cóc Chết gọi đó là “Bí mật giữa cánh dàng ông với nhau”, ngụ ý rằng nếu tôi hé môi với mẹ, ông ta sẽ đánh tôi sống dở chết dở.



Tôi bảo:



- Con không có tiền.



Gabe Cóc Chết nhướn đôi lông mày bóng dâu.



Ông ta đánh hơi thấy mùi tiền thính như chó săn thấy con mồi. Kể cũng lạ, tôi tưởng mùi hôi thối từ cơ thể ông át mọi mùi khác chứ.



- Mày đi tãi từ bến xe về chắc chứn tốn cả hai chục đồng. Chí ít giờ trong túi mày phải còn sáu bảy đồng tiền lẻ. Nhà tao đâu phải nhà nuôi trẻ làm phúc. Muốn sống ở đây phải biết điều chứ. Tao nói có gì trật không, Eddie?



Chú Eddie, vốn là quản lý tòa nhà chung cư này, nhìn tôi với vẻ mặt cắn rứt. Nếu tách chú khỏi chiếu bạc này, ai cũng bảo chú không đến nỗi tệ. Chú bảo:



- Kìa Gabe, cháu nó vừa chân ướt chân ráo vào nhà mà.



Dượng Gabe đay lại:



- Nhưng tao nói có đúng không?



Eddie vội cúi xuồng đĩa bánh, không dám ngẩng đầu lên. Hai người lạ ngồi cạnh cú cũng im lặng.



Tôi móc nắm tiền trong túi ném lên bàn:



- Này đây. Cầu cho dượng thua cháy túi.



Dượng Gabe gào lên sau lưng tôi:



- Này học sinh ưu tú, người ta gửi bảng điểm của mày về đây rồi đấy, con ạ. Học ngu còn ra vẻ ta đây!



Tôi sập cửa phòng “mình” đánh rầm. Thực ra, đó không hẳn là phòng riêng của tôi. Trong lúc tôi ở lại trường nội trú, nó là “phòng nghiên cứu” của dượng Gabe. Khốn nỗi ông ta chẳng “nghiên cứu” gì ngoài đống tạp chí xe hơi cũ. Tuy nhiên, cha ghẻ tôi khoái tống táng đồ đạc của tôi vào tủ, “trưng bày” đôi giày cao cổ dính ầy bùn lên bậu cửa sổ và cố hết sức làm phòng này ám mùi nước hoa đàn ông gớm guốc trộn mùi khói thuốc lá và bia thiu chua lòm.



Tôi ném va li lên giường.
Dẫu biết nên kể cho mẹ chuyện ba bà già ở sạp trái cây, chuyện cô Dodds ở viện bảo tàng, nhất là màn ảo giác kỳ cục trong đó tôi phanh thây cô giáo thành tro bụi bằng thanh kiếm dài, thế nhưng tôi lại không dám.



Lạ thay, tôi có cảm giác nếu báo tin ấy, chuyến đi Montauk sẽ kết thúc ngay lập tức mà tôi lại không muốn thế chút nào.



- Mẹ cố giữ con càng gần mẹ càng tốt. Nhưng mọi người bảo thế là sai lầm. Nhưng còn có một lựa chọn duy nhất: nơi cha muốn gửi con theo học. Nhưng… mẹ không đành lòng làm thế.



- Cha muốn gửi con đến trường đặc biệt ư?



- Không phải trường. Là trại hè.



Tôi không hiểu gì cả.



Tại sao người cha không ở bên từ khi tôi chào đời có thể bàn với mẹ chuyện đưa tôi đi trại hè? Va nếu chuyện đi trại hè quan trọng đến vậy, tại sao trước nay mẹ chưa từng đả động đến?



Thấy tôi hoang mang, mẹ bảo:



- Xin lỗi con, nhưng mẹ không thể nói với con về trại hè. Mẹ… không thể để con đến đó. Làm thế có nghĩa mẹ con ta sẽ vĩnh viễn không còn gặp mặt nhau.



- Vĩnh viễn ư? Nhưng con tưởng trại hè chỉ…



Mẹ quay mặt đi, chăm cú nhìn đống lửa. Nhìn mặt mẹ, tôi biết chỉ cần tôi hỏi thêm câu nữa, bà sẽ khóc òa.



***



Giấc mơ đêm ấy của tôi sống động như ngoài đời thật.



Ngoài biển mưa gió bão bùng. Hai con vật đẹp như tranh vẽ, một con tuấn mã trắng tuyền và con đại bàng lông như dát vàng, đánh nhau dữ dội sát mép sóng. Đại bàng xà xuống, giương móng vuốt to lớn cào rách mũi chú ngựa trắng. Chú ngựa giận dữ chồm lên, vung chân dá cánh đại bàng. Giữa lúc giao tranh, đất trời rung chuyển. Đâu đó sâu trong lòng đất vang lên tiếng gầm ghê rợn xúi giục chúng lao vào nhau cắn xé.



Tôi chạy về phía chúng và biết mình nhất định phải can ngăn nhưng không hiểu sao chân tôi chạy rất chậm. Tôi biết cứ đà nay, tôi sẽ không kịp mất. Từ xa, tôi thấy đại bàng nhào xuống mổ lòi mắt chú ngựa bạch. Tôi thét lên: “Đừng!”



Tôi giật mình choàng tỉnh.



Bên ngoài đang có bão thật. Gió mạnh cỡ này chắc chắn phải có cây đổ, nhà sập chứ chẳng chơi.



Ngoài bãi cát không có tuấn mã và đại bàng, chỉ có sấm chớp chốc chốc rực sáng cả bầu trời. Những ngọn sóng cao sáu mét dội vào đụn cát nghe như tiếng đại bác.



Mẹ tôi thức giấc sau loạt sấm rền. Bà ngồi dậy, mắt mở to, nhìn tôi âu lo:



- Bão nhiệt đới.



Tôi biết chuyện này thật điên rồ. Mới đầu hè, biển ở Long Island không bao giờ có bão lớn như thế. Thế nhưng, đại dương dường như đã quên điều đó.



Trong tiếng gió hú, tôi nghe có tiếng gầm gừ từ xa vọng tới. Tiếng kêu nghe đau đớn, vật vã làm tôi sởn cả tóc gáy.



Sau đó là tiếng động tiến đến gần hơn, nghe như tiếng búa nện trên cát. Một giọng nói tuyệt vọng – ai đó vừa hét vừa đập vào cửa căn nhà gỗ.



Mẹ tôi mặc nguyên váy ngủ lao xuống đất, chạy ra mở cửa.



Grover ướt như chuột lột hiện trên khung cửa. Nhưng hình như... cậu ta không phải Grover, bạn tôi.



Nó hổn hển:



- Tôi kiếm hai mẹ con suốt đê. Các người nghĩ sao mà ra đây thế?



Mẹ nhìn tôi hoảng hốt. Bà không sợ Grover. Lý do nó đến tìm mới làm bà kinh hãi.



Tiếng mẹ gào át cả tiếng mưa:



- Percy! Ở trường đã xảy ra chuyện gì? Con đã không kể cho mẹ nghe chuyện gì?



Tôi chết sững, mắt nhìn Grover đăm đăm nhưng không hiểu trước mắt mình là cái gì.



Nó gào lên:



- Những Kẻ Bất Tử! Nó đuổi sát tôi rồi. Cậu chưa kể với mẹ ư?



Tôi sốc thực sự khi nghe nó mắng bằng tiếng Latinh. Tôi hiểu nó vừa nói gì nhưng quá kinh ngạc vì không biết bằng cách nào Grover tìm đến tận đây giữa đêm hôm khuya khoắt. Với lại, Grover không mặc quần. Chân nó... chỗ lúc trước là chân nó thì...



Mẹ nghiêm khắc nhìn tôi và lần đầu tiên đanh giọng ra lệnh:



- PERCY! Nói cho mẹ NGAY.



Tôi lắp bắp kể về ba bà già ở sạp trái cây và về cô Dodds. Mẹ nhìn chằm chằm vào tôi, mặt bà tái nhợt như thây ma trong ánh sáng lập loe.



Bà chộp lấy túi xách và quăng áo mưa cho tôi:



- Ra xe ngay. Cả hai đứa. NHANH LÊN!



Grover chạy ra chiếc Camaro. Nói chạy cũng không đúng, nó đang phi nước đại. Phần thân sau lông lá gân guốc của nó rung rung. Giờ tôi mới nhớ nó bảo có bệnh về cơ. Tôi đã hiểu lý do nó chạy thì nhanh nhưng đi bình thường lại như bị tật.



Bởi vì chỗ đáng lẽ phải có bàn chân lại thay bằng cặp móng guốc.