Percy Jackson Tập 4: Cuộc Chiến Chốn Mê Cung

Chương 7 :

Ngày đăng: 18:09 19/04/20


Tin tốt: đường hầm bên trái thẳng tắp, không có lối ra ở hai bên hay chỗ rẽ nào. Tin xấu: nó là ngõ cụt. Sau khi chạy nước rút được gần một trăm mét, chúng tôi gặp phải một tảng đá cuội khổng lồ bít hoàn toàn lối đi. Đằng sau, tiếng chân lê bước và hơi thở nặng nhọc vọng lại từ cuối hành lang. Một thứ gì đó – chắc chắn không phải con người – đang đuổi theo chúng tôi.



“Tyson,” tôi nói, “em có thể...”



“Được!” Tyson dùng vai đẩy ầm ầm vào tảng đá mạnh đến nỗi cả đường hầm rung chuyển. Bụi rơi xuống từ trần nhà bằng đá.



“Nhanh lên!” Grover nói. “Đừng làm sập trần nhà, nhưng mà nhanh lên!”



Cuối cùng thì hòn đá cùng nhường lối cho chúng tôi sau một tiếng rít kinh hoàng. Tyson đẩy nó vào một căn phòng nhỏ. Chúng tôi lao vào đằng sau nó.



“Đóng lối đi lại!” Annabeth nói.



Tất cả chúng tôi đều sang phía bên kia tảng đá và bắt đầu đẩy. Thứ đang đuổi theo chúng tôi kêu gào lên đầy tức giận khi chúng tôi đẩy tảng đá về chỗ cũ và bít chặt hành lang.



“Chúng ta đã chặn được nó,” tôi nói.



“Hay là bẫy chính chúng ta,” Grover thốt lên.



Tôi quay lại. Chúng tôi đang dứng trong một căn phòng xi măng chưa đầy sáu mét vuông, và bức tường đối diện có đầy những thanh chắn bằng kim loại. Chúng tôi đã đi thẳng vào một xà lim.



“Cái quái quỷ gì thế này?” Annabeth giật mạnh mấy chấn song. Chúng không thèm nhúc nhích. Qua các thanh chắn này, chúng tôi có thể thấy hàng dài các xà lim quanh một khoảng sân tối – chí ít có ba tầng cửa sắt và ba lối đi hẹp bằng kim loại.



“Một nhà tù,” tôi nói. “Có thể Tyson có thể phá...”



“Suỵt,” Grover nói. “Hãy nghe mà xem.”



Ở đâu đó trên đầu chúng tôi có tiếng khóc vọng lại. Còn có một tiếng động khác nữa – tiếng ai đó đang cáu giận lẩm bẩm điều gì đó mà tôi không nghe rõ. Những từ ngữ rất lạ, nghe như tiếng đá trong cái vại vậy.



“Thứ ngôn ngữ gì vậy?” Tôi thì thầm.



Mắt Tyson mở to. “Không thể nào.”



Cậu ấy nắm lấy hai chấn song và bẻ cong chúng, tạo ra một khoảng trống rộng đến nỗi một người khổng lồ cũng có thể lách qua.



“Đợi đã!” Grover gọi.



Nhưng Tyson không định đợi. Chúng tôi chạy theo cậu ấy. Nhà tù rất tối, chỉ có vài ánh đèn huỳnh quang lờ mờ lập lòe ở phía trên.



“Tớ biết nơi này,” Annabeth nói với tôi. “Đây là Alcatraz.(8)”



“Ý cậu là hòn đảo gần San Francisco?”



Annabeth gật đầu. “Trường tớ từng có một chuyến đi thực tế ở đây. Nó giống như một bảo tàng ấy.”



Dường như việc chúng tôi có thể vọt ra khỏi Mê Cung và ở đầu kia của đất nước là không thể, nhưng Annabeth đã sống ở San Francisco cả năm trời, theo dõi Núi Tamalpais ở phía bên kia vịnh. Cô ấy chắc chắn biết mình đang nói gì.



“Dừng lại,” Grover cảnh báo chúng tôi.



Nhưng Tyson tiếp tục đi tới. Grover ôm lấy cánh tay Tyson và dùng hết sức kéo cậu ấy lại. “Dừng lại, Tyson!” Grover thì thầm, “Cậu không trông thấy gì à?”



Tôi nhìn theo hướng Grover chỉ và dạ dày tôi quặn lên từng cơn. Trên ban công tầng hai, phía bên kia sân là một con quái vật còn kinh khủng hơn bất cứ con quái vật nào tôi đã từng gặp trước đây.



Trông nó giống như một nhân mã, với cơ thể của một người phụ nữ tính từ phần eo trở lên. Nhưng thay vì phần dưới giống ngựa thì đó là thân của một con rồng – nó dài ít nhất là sáu mét, đen và đầy vẩy với những móng vuốt khổng lồ và một cái đuôi đầy gai. Những cái chân của bà ta trông như bị những thân nho quấn quanh, nhưng rồi tôi nhận ra chúng là những con rắn, hàng trăm con rắn vipe đang phóng ra, như thể chúng đang tìm kiếm một cái gì đó để cắn xé. Tóc của bà ta cũng được làm bằng rắn chẳng khác gì của mụ Medusa. Điều kỳ lạ nhất là quanh eo của bà ta, nơi giao nhau giữa cơ thể người và rồng, da bà ta nổi bọt và biến đổi, thỉnh thoảng lại xuất hiện đầu của một con vật – một con sói, một con gấu, một con sư tử hung dữ, như thể bà ta đang đeo một cái thắt lưng làm bằng những sinh vật và chúng thì liên tục thay đổi. Tôi có cảm giác mình đang nhìn thấy cái gì đó mới hình thành một nửa, một con quái vật ở hình hài cổ xưa,hi cơ thể nó được định hình đầy đủ.



“Chính là bà ta,” Tyson rên rỉ.



“Cúi xuống!” Grover nói.



Chúng tôi thu mình trong bóng tối, nhưng con quái vật chẳng mảy may chú ý đến chúng tôi. Có vẻ bà ta đang nói chuyện với ai đó trong xà lim trên tầng hai. Đó là nơi tiếng khóc phát ra. Người phụ nữ mình rồng nói điều gì đó bằng thứ ngôn ngữ kỳ lạ.



“Bà ta đang nói gì vậy?” Tôi nói khẽ. “Đấy là ngôn ngữ gì thế?”




“Anh Briares, hãy chiến đấu đi!” Tyson giục. “Hãy trở về kích cỡ thật của anh đi!”



Thay vì làm như Tyson nói, Briares hình như còn co lại bé hơn. Trên mặt anh ta là khuôn mặt ‘hoàn toàn sợ hãi’.



Kampê lao rầm rầm về phía chúng tôi trên đôi chân rồng, hàng trăm con rắn trườn quanh người mụ ta.



Trong một giây, tôi đã nghĩ đến việc rút thanh Thủy Triều ra và đối đầu với mụ, nhưng rồi tôi chùn lại. Rồi Annabeth cũng nói điều mà tôi đang suy nghĩ: “Chạy thôi.”



Tranh luận kết thúc. Không thể chiến đấu với một thứ như thế này. Chúng tôi chạy qua sân rồi qua cổng nhà tù, con quái vật vẫn đuổi sát phía sau. Mọi người xung quanh la hét và chạy. Tiếng còi báo động bắt đầu kêu inh ỏi.



Chúng tôi đến cầu tàu ngay khi một con tàu du lịch đang trả khách. Nhóm khách du lịch sững sờ khi trông thấy chúng tôi chạy bổ đến, theo sau là một đám đông khách du lịch khác cũng đang hoảng sợ, và... Tôi không biết họ đã trông thấy gì qua Màn Sương Mù, nhưng hẳn là không tốt lắm.



“Đi thuyền ư?” Grover hỏi.



“Quá chậm,” Tyson nói. “Quay lại mê cung. Cách duy nhất.”



“Chúng ta cần ai đó đánh lạc hướng Kampê,” Annabeth nói.



Tyson nhổ một cột đèn lên khỏi mặt đất. “Em sẽ đánh lạc hướng Kampê. Mọi người chạy trước đi.”



“Anh sẽ giúp em,” tôi nói.



” Tyson nói. “Anh đi đi. Chất độc có thể làm đau Cyclops. Rất đau. Nhưng không thể giết chết được.”



“Em chắc chứ?”



“Đi đi anh. Em sẽ gặp lại mọi người bên trong.”



Tôi ghét cái ý tưởng này. Trước đây, suýt nữa tôi đã để mất Tyson một lần, và tôi không bao giờ muốn liều như thế nữa. Nhưng không còn thời gian để tranh cãi, và tôi cũng không nghĩ được cách nào tốt hơn. Annabeth, Grover và tôi mỗi người nắm một tay Briares và kéo anh ta đi, trong khi Tyson gầm lên, hạ thấp cây cột đèn và tấn công Kampê như một hiệp sĩ đơn thương độc mã.



Kampê liếc nhìn Briares, nhưng Tyson làm mụ phải chú ý ngay khi giáng cho mụ một đòn vào ngực, đẩy mụ bật ngược vào tường. Mụ hét lên và chém tứ phía với hai thanh kiếm, chém cây cột đèn của Tyson ra thành từng mảnh. Chất độc nhỏ thành vũng xung quanh mụ, kêu xèo xèo trên nền xi măng.



Tyson nhảy lùi lại khi khi tóc của Kampê quật vào và kêu rít lên, tất cả những con rắn vipe quanh chân mụ thè lưỡi ra mọi hướng. Một con sư tử nhảy ra khỏi thắt lưng của mụ và gầm lên.



Khi chúng tôi chạy bổ vào khu nhà tù, điều cuối cùng tôi trông thấy là Tyson nhấc một quầy kem Dippin’ Dots lên và ném vào Kampê. Kem và chất độc tung tóe khắp nơi, những con rắn nhỏ trên tóc Kampê đều dính phải hỗn hợp kem và mứt hoa quả. Chúng tôi chạy hộc tốc quay lại sân nhà tù.



“Không làm được,” Briares hổn hển nói.



“Tyson đang liều mình để cứu anh đấy!” Tôi hét lên với Briares. “Anh sẽ làm được.”



Khi chúng tôi đến cửa khu nhà tù, tôi nghe một tiếng gầm đầy giận dữ. Tôi ngoái lại nhìn và thấy Tyson đang chạy hết tốc lực về phía chúng tôi, Kampê theo sát đằng sau. Người mụ ta bám đầy kem và áo phông. Một trong những cái đầu gấu ở vùng eo của bà ta đang đeo một cặp kính râm Alcatraz gọng khoằm bằng nhựa.



“Nhanh lên!” Annabeth giục giã, như thể tôi cần phải được nói cho điều đó vậy.



Cuối cùng chúng tôi cũng tìm thấy phòng giam mà chúng tôi đã đi vào, nhưng bức tường đằng sau nó thì hoàn toàn nhẵn thín – không có dấu hiệu của một tảng đá cuội hay cái gì khác.



“Hãy tìm dấu hiệu đi!” Annabeth nói.



“Đây rồi!” Grover chạm vào một vệt xước nhỏ, và nó trở thành tượng Delta . Dấu hiệu của Daedalus tỏa ánh sáng xanh, và cánh cửa đá kêu ken két rồi mở ra.



Quá chậm. Tyson đang chạy băng qua khu nhà giam, những lưỡi kiếm của Kampê chém tới tấp đằng sau lưng cậu ấy, chém loạn xạ lên các chấn song của phòng giam và các bức tường đá.



Tôi đẩy Briares vào bên trong mê cung, sau đó là Annabeth và Grover.



“Em làm được mà!” Tôi nói với Tyson. Nhưng ngay lập tức tôi nhận ra đó là điều không thể. Kampê đang giành lợi thế. Mụ ta đang vung kiếm lên. Tôi cần một cái gì đó khiến mụ ta sao lãng – một thứ gì đó thật lớn. Tôi đập vào cái đồng hồ đeo tay và nó xoắn lại thành một cái khiên đồng. Một cách liều lĩnh, tôi ném nó vào mặt con quái vật.



BỐP! Tấm khiên trúng vào mặt khiến mụ ta loạng choạng đủ để Tyson vụt qua tôi vào mê cung. Tôi theo ngay sau lưng cậu ấy.



Kampê tấn công, nhưng đã quá muộn. Cánh cửa đá đóng lại và ma thuật của nó nhốt chúng tôi ở bên trong. Tôi có thể cảm thấy cả đường hầm rung lên khi Kampê húc vào nó và gầm lên giận dữ. Tuy nhiên chúng tôi không nán lại để chơi trò gõ cửa với mụ ta. Chúng tôi phóng nhanh vào trong bóng tối, và lần đầu tiên (cũng là lần cuối) tôi thấy vui vì được quay trở lại Mê Cung.