Quyền Lực Thứ Tư

Chương 1 :

Ngày đăng: 15:13 19/04/20


TIN GIỜ CHÓT



CÁC VUA BÁO CHÍ VẬT LỘN ĐỂ CỨU VƯƠNG QUỐC CỦA MÌNH



Báo



GLOBE



Ngày 5 tháng Mười một, 1991



ARMSTRONG PHÁ SẢN



Vận rủi như rơi cả vào ông. Nhưng trước đây, chưa bao giờ nó khiến Richard Armstrong phải lo lắng.



“Xin các vị đặt tiền”.



Armstrong nhìn xuống tấm vải màu be nhạt. Chồng phỉnh (1) trước mặt ông vừa 20 phút trước đó cao ngất ngưởng, giờ chỉ còn là một nhúm nhỏ. Tối nay ông đã thua bốn mươi ngàn francs, nhưng bốn mươi ngàn francs thì thấm tháp gì khi trong vòng mười hai tháng qua, ông đã lỗ hơn một tỷ đô la.



Ông nhoài người, đặt toàn bộ chỗ phỉnh còn lại vào số 0. “Các số đã đặt xong. Không nhận thêm nữa", người tài pán vừa nói vừa quay bánh xe. Hòn bi nhỏ chạy tròn trong vùng lòng chảo trước khi dừng lại ở một con số.



Armstrong lơ đãng nhìn ra xa. Ngay cả khi hòn bi đã dừng, ông cũng không buồn nhìn lại.



“Số hai mươi sáu”, tài pán hô to, đồng thời bắt đầu vơ phỉnh từ các ô số không phải là hai mươi sáu.
“Chúng ta đi ngay thôi”.



Viên thuyền trưởng không ngạc nhiên. Ông ta biết Armstrong không bao giờ muốn neo tàu trong vịnh lâu hơn mức cần thiết. Chỉ có cái lắc lư nhè nhẹ của con tàu mới ru ông vào giấc ngủ, ngay cả trong những giờ phút đen tối nhất. Ông ta phát lệnh chuẩn bị ra khơi trong khi Armstrong cởi giầy, mất hút dưới ca bin tàu.



Khi mở cửa ca bin sang trọng, ông lại thấy một chồng fax mới. Ông vồ lấy chúng, vẫn hy vọng còn đường sống. Fax đầu là của Peter Wakeham, Phó chủ tịch của Công ty Viễn thông Armstrong, lúc này vẫn đang còn ở văn phòng London mặc dù đã rất muộn. “Xin hãy điện thoại ngay cho tôi", bức điện viết. Bức điện thứ hai từ New York, cổ phiếu của công ty đã xuống một mức thấp mới và các ngân hàng của ông đã "miễn cưỡng" thấy cần phải bán các cổ phiếu của họ ra thị trường. Bức điện thứ ba là của Jacques Lacroix ở Giơnevơ khẳng định rằng, vì ngân hàng không nhận được 50 triệu đô la vào cuối ngày làm việc, nên họ không còn cách nào khác là...



Bây giờ là 5 giờ 12 phút ở New York, tức là 10 giờ 12 phút ở London và 11 giờ 12 phút ở Giơnevơ. Vào lúc 9 giờ sáng hôm sau, ngay ông cũng không thể ngăn được những hàng tít lớn trên các tờ báo của ông, chứ đừng nói gì đến những tờ báo của Keith Townsend.



Armstrong kéo khoá, để quần áo rơi thành đống trên sàn. Sau đó ông mở tủ lấy chai brandy, rót một cốc lớn rồi vật ra giường. Ông nằm im lìm trong khi tiếng máy tàu gầm lên và chiếc du thuyền bắt đầu lách mình ra khỏi cảng.



Mấy giờ trôi qua mà Amstrong vẫn nằm bất động, chỉ trừ những lúc rót thêm rượu, cho đến khi ông nghe chiếc đồng hồ nhỏ để gần giường điểm bốn tiếng. Ông lồm cồm bò dậy, đợi một lát rồi đặt chân xuống nền thàm. Ông đứng không vững, loạng choạng đi qua phòng không bật đèn, vào nhà tắm. Khi đến chiếc cửa mở sẵn, ông với tay lấy chiếc áo choàng rộng màu kem thêu chữ Hầu tước Lancelot màu vàng trên túi. Ông sờ soạng đi về phía cửa ca-bin, thận trọng mở và chân trần bước ra ngoài hành lang tối ánh đèn. Ông do dự trước khi khoá cửa ca-bin, đút chìa vào túi áo choàng. Ông đứng im cho đến khi cầm chắc không nghe tiếng gì khác ngoài tiếng máy quen thuộc của con tàu.



Armstrong lảo đảo đi dọc hành lang tàu, dừng lại ở chân cầu thang dẫn lên boong. Rồi ông từ từ trèo lên, tay bám chắc vào hai sợi dây to dùng làm tay vịn. Lên hết cầu thang, ông bước ra boong, vội vã nhìn ngược ngó xuôi. Không có ai. Đêm tối trong veo, lành lạnh, không khác gì những đêm vào thời gian này trong năm.



Armstrong chầm chậm bước di, cho đến khi ông đến khoang trên chỗ đặt máy, nơi ồn nhất trên tàu.



Ông chỉ đợi một lát, rồi tháo dây buộc áo choàng, để nó tự rơi xuống sàn.



Trần truồng trong đêm, ông nhìn ra biển tối đen tịch mịch và nghĩ: Chả lẽ đời ta chỉ thoáng qua trước mắt trong một khoảnh khắc như thế này sao?



(1) Vật dùng trong các sòng bạc lớn, thay cho tiền. Mỗi sòng có một loại phỉnh khác nhau và chỉ có giá trị ở sòng đó. Chúng thường bằng nhựa cứng, nhiều hình dáng và màu sắc, mỗi hình hoặc mỗi màu tương ứng với một số tiền nhất định (chú thích của Biên tập).