Quyền Lực Thứ Tư
Chương 13 :
Ngày đăng: 15:13 19/04/20
Báo
DER TELEGRAF
Ngày 31 tháng Tám, 1947
TIẾP TỤC KHAN HIẾM LƯƠNG THỰC Ở BERLIN
"Nếu Lauber để lại di chúc, tôi cần phải có nó".
"Tại sao việc có nó trong tay lại trở nên quan trọng đến thế?" Sally hỏi.
"Vì tôi muốn biết ai là người thừa hưởng cổ phần của tờ Der Telegraf".
"Tôi nghĩ là vợ ông ta".
"Không. Nhiều khả năng là Arno Schultz. Trong trường hợp đó, tôi đang lãng phí thời gian, vì vậy phải biết rõ càng nhanh càng tốt".
"Nhưng tôi không biết phải bắt đầu từ đâu?
"Hãy thử từ Bộ Nội vụ xem. Khi thi hài Lauber đã được đưa về Đức là bắt đầu thuộc trách nhiệm của họ".
Sally vẫn có vẻ không tin tưởng.
"Hãy sử dụng hết mọi lợi thế mà cô có trong tay", Armstrong nói. "Hãy hứa sẽ đền đáp, nhưng tìm cho tôi di chúc đó". Anh quay ra. "Được rồi, tôi sẽ đến chỗ Hallet".
Anh lại đến căng tin sĩ quan, ngồi trên chiếc ghế cao trong góc quầy rượu, gọi một cốc uytxki, cứ vài phút lại nhìn đồng hồ.
Khi chiếc đồng hồ quả lắc to trong phòng điểm chuông sáu rưỡi, Stephen Hallet đủng đỉnh bước vào. Nhìn thấy Armstrong, anh ta cười tươi roi rói, đến ngồi cạnh anh.
"Cám ơn anh rất nhiều về thùng rượu Mouton-Rothschild 1929 nhé. Tuyệt vời. Tôi phải thú nhận đang uống dè để đủ cho đến khi xong thủ tục xuất ngũ".
Armstrong mỉm cười. "Vậy thì phải tính xem có cách nào để được cung cấp thường xuyên hơn không. Sao anh không cùng ăn tối với tôi nhỉ? Chúng ta có thể biết tại sao họ cứ ca ngợi hết lời rượu vang Château Beychevelle 33 thế".
Trong khi ăn món thịt bò nướng, đại uý Hallet lần đầu tiên được nếm loại rượu Beychevelle, trong khi Armstrong biết hết mọi điều cần biết về chúc thư, tại sao các cổ phần của Lauber đương nhiên thuộc về bà Lauber là người gần ông ta nhất nếu không tìm được di chúc nào khác.
"Nhưng nếu bà ta cũng chết rồi thì sao?", Armstrong hỏi trong khi người bồi bàn mở chai vang thứ hai.
"Nếu bà ta đã chết, hoặc không thể tìm thấy", Hallet uống ly rượu vừa rót và nụ cười trở lại trên môi, "thì người sở hữu gốc phải đợi năm năm. Sau năm năm, anh ta có thể đệ đơn yêu cầu được sở hữu những cổ phần đó".
Vì không thể ghi chép lại, nên Armstrong cứ nhắc lại các câu hỏi để nắm chắc là những thông tin chính đã được ghi vào trí nhớ. Điều này chẳng làm Hallet lo ngại; Armstrong nghi rằng anh chàng này cũng biết ý đồ của anh, nhưng tránh không hỏi, chừng nào anh vẫn tiếp tục rót rượu cho anh ta. Khi Armstrong tin là đã hiểu hết mọi khía cạnh pháp lý của vấn đề, anh tìm cớ để về trước, mặc anh chàng luật sư với chai rượu còn non nửa.
Ở câu lạc bộ ra, Armstrong không về nhà ngay. Anh không muốn lại phải mất thêm một buổi tối nữa giải thích cho Charlotte tại sao thủ tục xuất ngũ của anh lại mất nhiều thời gian đến thế, trong khi vài người bạn anh đã trở về xứ sở sương mù từ lâu rồi. Anh ra lệnh cho binh nhì Benson, trông đã có vẻ mệt mỏi, đưa anh tới khu vực người Mỹ.
Người đầu tiên anh đến thăm là Max Sackville. Hai người chơi bài với nhau cả giờ liền. Anh thua vài đô la, nhưng có được một số thông tin hữu ích về sự di chuyển quân của Mỹ mà anh biết đại tá Oakshott sẽ rất biết ơn khi được nghe.
Sau khi cho là đã thua đủ để lại được mời quay lại, Armstrong rời chỗ Max, lững thững qua đường, đi dọc một phố cụt trước khi rẽ vào một quầy rượu quen thuộc trong khu vực của Mỹ. Anh nhập hội với đám sĩ quan đang ăn mừng sắp được trở về Mỹ. Sau vài li uýt xki, anh ra đi, có thêm một số thông tin khác. Nhưng anh sẵn sàng đánh đổi tất cả những thông tin đó để chỉ được nhìn thấy tờ di chúc của Lauber. Anh không nhận thấy một người còn rất tỉnh táo, ăn vận thường phục cũng đứng dậy đi theo anh ra phố.
Anh đang đi về phía xe thì nghe tiếng người gọi từ phía sau: "Lubji".
Armstrong đứng chết lặng, cảm thấy choáng váng. Anh quay ngoắt lại thì thấy một người cùng trạc tuổi anh, nhưng thấp béo hơn. Ngưòi này mặc bộ comlê màu xám, sơ mi trắng, cravát xanh xẫm. Trên đường phố thiếu ánh đèn, anh không nhìn rõ mặt anh ta.
"Anh chắc chắn phải là người Tiệp", Armstrong nói nhỏ.
"Không phải, Lubji ạ".
"Vậy thì anh là một tên Đức khốn nạn", Armstrong nói, nắm chặt tay tiến về phía anh ta.
"Lại sai rồi", anh ta nói, không lùi bước.
"Vậy thì anh là thằng quái quỷ nào?".
"Hãy cứ cho là một người bạn".
"Nhưng tôi thậm chí còn không biết anh. Tại sao anh không bỏ cái trò úp mở ấy mà nói thẳng xem anh cần cái đếch gì”.
"Chỉ muốn giúp anh", người đàn ông nói nhỏ.
"Nhưng bằng cách nào?" Armstrong lầu bầu.
Anh ta mỉm cười. "Bằng cách trao cho anh bản di chúc mà anh quyết tâm tìm kiếm".
Anh dùng chiếc gậy nhỏ gõ lên kính, và một lát sau cửa mở. Bà ta chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy một sĩ quan Anh đứng ngay trước cửa phòng mình. Bà dẫn anh theo một hành lang nhỏ tối om tới một căn phòng nhỏ lạnh lẽo trông sang một khối nhà cũng mười tầng khác. Armstrong ngồi xuống chiếc ghế đối diện bà cạnh một lò sưởi điện hai thanh, trong đó chỉ một thanh còn đỏ.
Anh rùng mình khi nhìn bà ta co rúm người trên ghế, phủ tấm khăn sợi thô lên vai.
"Tôi tới thăm chồng bà ở xứ Gan trước khi ông mất", anh vào chuyện. "Ông nhờ tôi chuyển tới bà cái này". Anh đưa bà chiếc va li méo mó.
Bà Lauber khen tiếng Đức của anh, rồi mở va li. Armstrong ngồi nhìn bà lôi ra một khung có ảnh vợ chồng bà trong ngày cưới, tiếp đó là ảnh một thanh niên mà anh nghĩ là con trai họ. Nhìn vẻ mặt buồn rầu của bà, anh có cảm giác chắc đứa con cũng đã chết trong chiến tranh. Sau đó là một vài vật khác, trong đó có một cuốn thơ của Rainer Maria Rilke và một bộ cờ vua bằng gỗ đã cũ.
Cuối cùng bà lấy ra ba tấm huân chương của chồng, ngước nhìn và hỏi với vẻ đầy hy vọng. "Ông ấy có nhắn gì tôi không?".
"Ông chỉ nói rất thương bà, và nhắn bà tặng Arno bộ cờ vua".
"Arno Schultz ấy à? Tôi không nghĩ là ông ta còn sống". Bà ngừng lại. "Anh biết không, ông già đáng thương đó là người Do thái. Chúng tôi bặt tin ông ta trong chiến tranh".
"Vậy thì tôi sẽ coi mình có trách nhiệm phải tìm xem ông ta còn sống hay không", Armstrong nói. Anh cúi người, cầm tay bà.
"Anh thật chu đáo", bà ta nói, những ngón tay xương xẩu nắm chặt tay anh. Một lúc lâu sau, bà mới buông tay. Sau đó bà nhặt bộ cờ vua đưa cho anh. "Tôi thật lòng hy vọng ông ấy còn sống", bà bảo. "Arno là một người tốt như thế cơ mà".
Armstrong gật đầu.
"Chồng tôi còn nhắn gì nữa không?"
"Có. Ông bảo tôi rằng mong muốn cuối cùng của ông là bà sẽ trả lại cổ phần cho Arno".
"Cổ phần nào thế nhỉ?", bà hỏi, lần đầu tiên nghe có vẻ lo lắng. "Họ có nói cổ phần nào khi họ đến thăm tôi đâu".
"Hình như Arno bán cho Herr Lauber một số cổ phần trong một công ty xuất bản, không lâu sau khi Hitler lên cầm quyền, và chồng bà có hứa khi chiến tranh kết thúc sẽ hoàn lại cho ông ta".
"A, tất nhiên tôi sẽ rất vui lòng làm việc đó", bà ta nói, lại run rẩy vì lạnh. "Nhưng đáng buồn là tôi chẳng giữ cổ phần nào cả. Có lẽ Klaus để lại di chúc..."
"Rất tiếc là không, thưa bà Lauber. Hoặc giả là có, nhưng chúng tôi không tìm thấy".
"Klaus không thế đâu. Ông ấy bao giờ cũng rất tỉ mỉ. Có lẽ nó thất lạc đâu đó trong khu người Nga cũng nên. Anh biết không? Không thể tin người Nga được đâu", bà thầm thì.
Armstrong gật đầu tán thành. "Cái đó cũng không sao", anh nói, lại cầm tay bà. "Tôi có trong tay một tài liệu uỷ quyền cho tôi, nếu Arno Shultz còn sống và được chúng tôi tìm thấy, ông ta sẽ được nhận lại số cổ phần của mình".
Bà Lauber mỉm cười. "Cám ơn anh", bà nói. "Tôi rất mừng khi biết vấn đề này được giao vào tay một sĩ quan Anh".
Armstrong mở cặp, lấy ra bản hợp đồng. Lật trang cuối cùng, anh chỉ cho bà hai chỗ đánh dấu bút chì, rồi đưa bút cho bà. Bà đặt bút ký ngoằn ngoèo giữa hai ô đánh dấu mà chẳng cần đọc xem hợp đồng nói gì. Khi mực đã ráo, Armstrong cho tài liệu đó vào cặp và đóng chặt lại. Anh mỉm cười nhìn bà Lauber.
"Tôi phải trở lại Berlin bây giờ", anh nói và đứng dậy. "Tôi sẽ cố gắng hết sức để tìm bằng được Arno Schultz, nếu ông ta còn sống".
"Cám ơn anh", bà Lauber nói, từ từ đứng dậy tiễn anh ra cửa. "Tạm biệt", bà nói khi anh bước ra ngoài. "Anh thật tử tế, vì tôi mà đi cả một quãng đuờng xa như thế". Bà mỉm cười yếu ớt.
"Thế nào?" Tulpanov hỏi khi Armstrong ngồi vào ghế.
"Bà ta đã ký thoả thuận".
"Tôi nghĩ bà ta sẽ làm điều đó", Tulpanov nói. Chiếc xe xoay một vòng và bắt đầu chặng đường trở lại Berlin.
"Vậy tới đây thì thế nào?, Armstrong hỏi.
"Bây giờ thì anh đã tung đồng tiền lên rồi", viên thiếu tá KGB nói. "Anh đã thắng và quyết định cầm chầy giữ khung gỗ. Nhưng tôi phải nói, cái mà anh vừa làm với bà Lauber khó có thể gọi là crickét".
Armstrong nhìn anh ta với vẻ ngỡ ngàng.
"Tôi cứ nghĩ anh sẽ đưa cho bà ta 40.000 Mác", Tulpanov nói. "Nhưng rõ ràng anh chỉ đưa cho Arno.... bộ cờ vua cũ".
Sáng hôm sau, đại uý Richard Armstrong đăng ký quyền sở hữu tờ Der Telegraf với Ủy ban Quân quản của Anh. Tuy một sĩ quan nhướng mày và một sĩ quan khác bắt anh phải đợi hơn một tiếng, nhưng cuối cùng người thư ký trực cũng đóng dấu tài liệu công nhận thoả thuận và xác nhận đại uý Armstrong hiện là chủ sở hữu duy nhất của tờ báo.
Charlotte cố giấu tình cảm thực của mình khi được nghe kể về việc làm ngoạn mục của chồng. Nàng chỉ biết nó cũng có nghĩa là việc họ trở về Anh sẽ lại bị trì hoãn. Nhưng nàng lấy làm mừng khi Dick đồng ý để vợ trở lại Lyon ở với cha mẹ khi sinh đứa con đầu lòng, vì nàng dứt khoát đòi bất cứ đứa con nào của nàng chào đời cũng phải là công dân Pháp.
Arno Schultz ngạc nhiên trước việc Armstrong bỗng xăng xái với tờ Der Telegraf. Anh bắt đầu đóng góp vào buổi giao ban hàng sáng, thậm chí còn ngồi trên xe phân phát báo chạy quanh thành phố lúc nửa đêm. Arno cho rằng sự hăng hái mới có này của ông chủ mình trực tiếp liên quan đến việc Charlotte trở về Lyon.
Trong vòng vài tuần sau đó, lần đầu tiên tờ báo bán vượt 300.000 số một ngày và Arno công nhận người học trò ngày nào nay đã thành bậc thầy lão luyện.
Một tháng sau, đại uý Armstrong nghỉ phép mười ngày để có thể về Lyon chờ đón đứa con đầu lòng. Anh vô cùng sung sướng khi Charlotte trao cho anh một cậu con trai được đặt tên thánh là David. Ngồi trên giường ôm con, anh hứa với Charlotte rằng không lâu nữa họ sẽ trở về Anh và sẽ bắt đầu một cuộc sống mới.
Một tuần sau đó, anh trở lại Berlin, quyết định nói với đại tá Oakshott rằng đã tới lúc anh từ chức và trở về Anh. Hẳn là anh đã làm như thế nếu Arno Schultz không tổ chức tiệc mừng sinh nhật lần thứ sáu mươi của ông ta.