Quyền Lực Thứ Tư

Chương 23 :

Ngày đăng: 15:13 19/04/20


Báo



THE TIMES



Ngày 29 tháng Mười, 1966



NĂM 1975 - MỤC TIÊU ĐÀO KÊNH HẾT HẠN BỐN NĂM ĐỂ XÂY DỰNG



"Cô Levitt sẽ cùng tôi tới Paris". Armstrong nói. "Hãy đặt cho tôi hai vé khoang hạng nhất và phòng như thường lệ ở khách sạn George V."



Sally thực hiện các yêu cầu của anh như thể đây là một vụ giao dịch bình thường. Cô mỉm cười khi nghĩ tới những điều hứa hẹn được để đến cuối tuần và sau đó bị thất hứa, về những món quà được đề nghị nhưng chẳng bao giờ thành hiện thực. Sáng thứ Hai cô phải sẵn sàng cùng cô gái, giống như người tiền nhiệm - nhưng có giờ lương cao hơn bất kỳ cơ quan nào dám trả cho những nhân viên hợp đồng thậm chí còn nhiều kinh nghiệm hơn.



Khi Armstrong từ Paris trở về vào sáng thứ Hai, Sally không thấy Sharon. "Cuộc gặp với Alexander Sherwood diễn ra thế nào?" Cô hỏi sau khi đặt bưu phẩm buổi sáng lên bàn anh.



"Chúng tôi đã thống nhất giá cả cho một phần ba cổ phần của ông ấy trong tờ Globe." Armstrong hoan hỉ nói. Truớc khi Sally có thể hỏi thêm chi tiết, anh nói thêm, "Việc tiếp theo của cô là xem cuốn catalô những món hàng được nhà bán đấu giá Sotheby ở Geneva đưa ra bán sáng thứ Năm."



Cô không chớp mắt khi lật qua ba trang của quyển lịch làm việc. "Sáng nay ông có hẹn vào lúc 10 giờ, 11 giờ và 11 giờ 45. và ăn trưa với William Bason, Chủ tịch hãng Reuter. Ông đã hẹn lại ông ấy hai lần rồi."



"Vậy thì cô sẽ phải hẹn lại lần thứ ba," Armstrong nói, chẳng buồn nhìn lên.



"Cả cuộc họp với Bộ trưởng Bộ Tài chính?"



"Tất tật," anh nói. "hãy đặt cho tôi hai vé hạng nhất tới Geneva vào tối thứ Tư, và phòng như thường lệ ở khách sạn Le Richemond nhìn được ra hồ."



Vậy là Sharon lại phải trải qua một cuộc dạo chơi thứ hai.



Sally đã nói chuyện điện thoại với bảy người được hẹn vào thứ Năm, biết rõ là có lý do chính đáng để Dick hoãn cuộc hẹn với Bộ trưởng và Chủ tịch hãng Reuter. Nhưng anh định mua gì nhỉ. Cái duy nhất anh đã từng mua là những tòa báo, mà người ta không thể mua một thứ như vậy ở nhà bán đấu giá.



Sally quay lại phòng làm việc và bảo Benson đánh xe đến nhà bán đấu giá Sotheby ở phố Bond mua cuốn catalô giới thiệu hàng sẽ bán ở Geneva. Một giờ sau đó khi anh ta đưa nó cho cô, thậm chí cô còn ngạc nhiên hơn. Trước đây chưa bao giờ Dick tỏ ra quan tâm tới việc sưu tập trứng. Có lẽ đó là sự liên lạc với người Nga. Vì rõ ràng Sharon không hề mong đợi có một tác phẩm của Fabergé cho hai đêm làm việc?



oOo



Tối thứ Tư, Dick và Sharon bay tới Geneva và nghỉ ở Le Richemond. Trước bữa ăn tối họ tản bộ tới khách sạn de Bergue ở trung tâm thành phố, nơi Sotheby luôn tiến hành những buổi bán đấu giá của họ ở Geneva, để xem xét kỹ căn phòng, nơi sẽ diễn ra cuộc bán đấu giá.



Armstrong xem nhân viên khách sạn xếp ghế và ước tính sẽ có khoảng bốn trăm người tham dự, quỵết định nơi anh cần ngồi để chắc chắn rằng mình có thể nhìn rõ người điều khiển cuộc bán đấu giá cũng như một loạt chín máy điện thoại đặt trên bục cao ở một bên tường. Khi anh và Sharon rời đi, anh còn dừng lại nhìn khắp phòng một lượt nữa.



Ngay khi quay về khách sạn, Armstrong vào ngay phòng ăn nhỏ nhìn ra hồ và đến thẳng chiếc bàn nằm trong góc. Anh đã ngồi đó rất lâu trước khi người hầu bàn nhắc anh rằng bàn đã được một vị khách khác đặt trước. Anh đặt món cho mình và sau đó chuyển tờ thực đơn cho Sharon.
Khi Armstrong bước vào ngân hàng, nơi anh chưa tới bao giờ, anh được tiếp đón bởi một người đàn ông gầy, cao, trông rất bí ẩn trong chiếc áo buổi sáng. Ông ta chậm chạp cúi chào và nói rằng ông ta đang đợi anh. Ông ta chẳng hỏi xem anh có muốn ông ta mang hộ quả trứng hay không.



"Xin mời ngài đi theo tôi?" Ông ta nói bằng tiếng Anh, dẫn Armstrong băng qua căn phòng lát đá cẩm thạch tới chiếc thang máy đang đợi sẵn. Tại sao ông ta biết mình là ai? Armstrong tự hỏi. Họ bước vào thang máy và cửa đóng lại. Chẳng ai trong số họ nói lời nào khi lên đến tầng trên cùng. Cánh cửa mở ra và người đàn ông mặc áo choàng dẫn anh vào một hành lang rộng trải thảm dày cho tới khi đến cánh cửa cuối cùng. Ông ta thận trọng gõ mấy tiếng, mở cửa ra và thông báo, "Ngài Armstrong".



Một người đàn ông mặc bộ complê kẻ sọc màu hồng, cổ áo hồ cứng và thắt nơ màu xám bạc bước về phía anh và tự giới thiệu là Pierre de Montiaque, Giám đốc điều hành của ngân hàng. Ông ta quay lại và hướng về một ngưòi đàn ông khác ngồi ở phía bên kia chiếc bàn họp rộng, sau đó bảo vị khách ngồi vào chiếc ghế trống trước mặt mình. Armstrong đặt quả trứng của Fabergé lên giữa bàn, và Alexander Sherwood đứng dậy, bước tới bắt tay anh thân mật.



"Gặp lại anh thật tốt quá," ông nói.



"Cả ông cũng vậy," Armstrong trả lời và mỉm cười. Anh ngồi xuống ghế và nhìn người đàn ông mà anh giao dịch ở Paris.



Sherwood cầm quả trứng kỷ niệm hoàng đế năm 1910 và xem xét kỹ lưỡng. Một nụ cười hiện lên trên mặt ông. "Nó sẽ là niềm hãnh diện cho bộ sưu tập của tôi, và chẳng có lý do gì để ông anh trai và bà chị dâu tôi nghi ngờ." Ông ta mỉm cười lần nữa và gật đầu về phía người chủ ngân hàng, người này mở ngăn kéo và rút ra một văn bản đưa cho Armstrong.



Arrmstrong xem bản thỏa thuận mà Stephen Hallet đã thảo cho anh trước khi anh bay tới Paris vào tuần trước. Khi kiểm tra lại thấy không có gì thay đổi, anh ký vào cuối trang thứ năm rồi đẩy nó qua bàn. Sherwood tỏ ra chẳng quan tâm tới việc kiểm tra lại các điều khoản, ông chỉ xoay lại trang cuối và ký vào bên cạnh cái tên Richard Armstrong.



"Như vậy tôi có thể xác nhận rằng hai bên dã thỏa thuận?" Viên giám đốc ngân hàng nói. "Hiện tôi đang giữ 20 triệu đô la tiền ký quỹ, và chỉ đợi chỉ thị của ngài Armstrong để chuyển nó vào tài khoản của ngài Sherwood."



Armstrong gật đầu. Hai mươi triệu đô la là khoản tiền mà Alexander và Margaret Sherwood đồng ý nhận cho một phần ba cổ phần của Alexander trong tờ Globe, hiểu rõ là sau đó cô ta được một khoản tiền như vậy cho một phần ba cổ phần của mình. Điều mà Margaret Sherwood không biết là Alexander đã đòi một sự trả ơn nho nhỏ cho vụ giao dịch này: một quả trứng do Fabergé làm, nó không được ghi trong bất kỳ điều khoản nào của bản hợp đồng.



Armstrong có thể đã tiêu hơn một triệu franc để bắt đầu hợp đồng, nhưng giờ đây anh đã sở hữu 33.3 phần trăm một tờ báo toàn quốc đã từng là tờ nhật báo ăn khách nhất thế giới.



"Vậy là công việc của chúng ta đã kết thúc," de Montiaque nói, đứng dậy khỏi chỗ ngồi ở đầu bàn.



"Chưa hoàn toàn," Sherwood nói, vẫn ngồi nguyên tại chỗ. Viên giám đốc điều hành ngồi xuống, không mấy vui vẻ. Amstrong ngọ ngoạy trong ghế. Anh có thể cảm thấy mồ hôi chảy trong cổ áo.



"Vì ngài Armstrong đã cộng tác tích cực như vậy," Sherwood nói, "tôi cho rằng tôi cũng nên đối xử đẹp với ông ấy." Vẻ mặt của họ cho thấy cả Armstrong và de Montiaque đều không chuẩn bị cho sự kiện bất thường này. Rồi Alexander Sherwood để lộ một mẩu thông tin cần lưu ý trong di chúc của cha ông, điều này làm môi Armstrong nở một nụ cười.



Ít phút sau khi rời ngân hàng quay về Le Richmond, anh tin rằng một triệu franc của anh đã được tiêu đúng chỗ.



oOo



Townsend không bình luận gì khi lần thứ hai trong đêm anh bị dựng dậy đúng lúc đang ngủ say. Anh nghe chăm chú và thì thào trả lời vì sợ Kate thức giấc. Khi đặt ống nghe xuống, anh không thể ngủ lại được nữa. Tại sao Armstrong lại bỏ ra một triệu franc để mua một quả trứng Fabergé, mang nó tới một ngân hàng Thụy Sĩ, và sau đó một giờ đi ra tay không?



Chiếc đồng hồ treo trên đầu giường nhắc anh bây giờ mới là 3 giờ 30 phút sáng. Anh nằm xuống ngắm Kate đang ngủ yên. Ý nghĩ của anh lan man từ nàng sang Susan; rồi quay lại Kate, nàng đã đổi khác biết bao; rồi anh nghĩ đến mẹ, liệu bà đã hiểu được anh chưa; và sau đó lại quay lại Armstrong, và làm thế nào để anh biết được anh ta đã đạt được cái gì.



Khi cuối cùng, tỉnh dậy rất muộn vào sáng hôm sau, Townsend vẫn chưa nghĩ ra cách giải quyết vấn đề hắc búa này. Anh sẽ vẫn bế tắc nếu vài ngày sau đó không nhận được một cú điện thoại của một phụ nữ ở London.