Resident Evil 0 - Giờ Hành Động

Chương 11 :

Ngày đăng: 09:30 18/04/20


Dịch giả: Lioncoeur



Đúng như anh nghi ngờ, cái điện thờ trong ngõ cụt chính là cánh cửa, và con đỉa gỗ Rebecca tìm được lắp vừa khít vào “lỗ khóa” của cửa. Sau một tiếng click khẽ, ô cửa đã được mở khóa.



Billy quan sát phía ngoài một hồi trước khi bước vào, quả quyết rằng vật đắp nổi đó thật sự là của Tiến sĩ James Marcus. Anh tự hỏi, không biết sao gã người đỉa trên toa tàu lại có thể giống như Marcus; khi mà chúng được điếu khiển bởi một gã thanh niên, kẻ cất tiếng hát ngoài đoàn tàu. Phải chăng thật sự Marcus vẫn còn đâu đây? Không hợp lý lắm. Quyển nhật ký Rebecca tìm được cho thấy Marcus đã gần như mất trí, bị ám ảnh rằng Spencer đang chơi lão, muốn hạ bệ lão, và cũng đã mười năm rồi. Một người lẩn thẩn sao có thể kiểm soát được công việc.



Rebecca đang đợi. Billy dẹp những mối nghi vấn sang một bên, dùng nòng súng đẩy cánh cửa. Anh quan sát nhanh xem bên trong có chuyển động nào không – không có gì cả - và hạ thấp súng, sải bước vào trong.



”Wow,” anh không nói nên lời khi nhìn xung quanh. Đây là một văn phòng lớn, sang trọng, một bên xếp hàng loạt những kệ và tủ âm tường, toàn bộ bằng gỗ mun bóng loáng với cửa kính, đối diện là một lò sưởi trang trí công phu. Nội thất được làm bằng gỗ xưa - gồm một cái bàn thấp. nhiều ghế, một bàn làm việc lớn – nhìn thật tuyệt mỹ, dưới sàn lót thảm nhung, khiến cho anh bước rất êm. Anh thấy một cánh cửa phía cuối phòng, đằng sau bàn làm việc, và bắt chéo hai ngón tay để cầu nguyện rằng nó chính là lối thoát cho họ.



Hầu như toàn bộ ánh sáng trong phòng đều phát ra từ cái bể cá lớn, chiếm cứ một góc phía đông bắc tính từ chỗ anh đang đứng, và dệt lên mọi thứ một màu xanh nhạt của nước, mặc dù thực tế nó trống rỗng –



- Billy cau mày, tiến lại gần. Không hoàn toàn rỗng. Không cá, không đá sỏi, không thực vật, nhưng lại có những vật thể dao động trên bề mặt – thứ gì đó rất kinh nhưng cũng không kém phần kỳ quặc. Trông giống những mảng thịt người, có điều không ra hình thù gì, không có xương, kiểu như các phần cơ thể bị cắt bỏ, bị làm biến dạng. Billy nhanh chóng đến gần, thấy bối rối với những vật thể nhợt nhạt dao động đó.



Một trong số mấy cái tủ âm tường mở sẵn, Billy lại gần nó, ngó qua mấy cuốn sách bên trong. Có một cuốn album hình khá cũ nằm trên kệ, và anh nhấc nó ra. Anh biết mình phải quay lại chỗ Rebecca, nhưng lại đang rất tò mò, muốn biết phải chăng cái tượng đắp nổi ngoài cửa chính là dấu hiệu cho thấy mình đang ở trong văn phòng của Marcus.



Tập hình đã khá cũ, bị ố vàng và quăn queo. Billy lật qua vài trang, thấy thật mất thì giờ. Anh tính để nó lại như cũ thì một tấm hình rớt ra. Anh nhặt lên, giơ nó ra dưới ánh sáng xanh nhạt.



Bản thân tấm hình không có gì đáng chú ý, chỉ là ba người đàn ông có tuổi từ ba mươi đến năm mươi, trông sạch sẽ và bảnh bao, đang cười với người chụp hình. Phía sau hình có dòng chữ viết tay của ai đó, “Gởi James, nhân dịp lễ tốt nghiệp, 1939.”



Billy nhìn tấm ảnh cẩn thận, tin chắc người đứng giữa là James Marcus. Nhưng có điều gì đó về hình dáng cái đầu… Không hiểu sao thấy quen quen…



”Chính hắn,” anh nói và khẽ gật đầu. Gã ca sĩ lúc trên tàu. Họ không thấy rõ hắn, nhưng xem ra hắn có cùng vóc dáng, cùng bờ vai rộng… ”Có thể con của Marcus. Hoặc cháu.”



Có một vấn đề nan giải ở đây, và anh nghĩ mình đã tìm được mảnh ghép còn thiếu. Nếu Spencer đã hạ bệ Marcus, cướp đoạt công việc của ông ta, liệu con Marcus, hoặc cháu, có định báo thù chăng? Biết đâu vụ phát tán virus không phải là tai nạn. Biết đâu gã đàn ông với lũ đỉa đã làm chuyện đó.



Billy thở dài, nhét tấm hình lên trên cùng cuốn album. Nghe có vẻ hay ho, nhưng có ý nghĩa gì đâu chứ? Cái anh cần là tìm đường thoát ra.



Billy kiểm tra cái bàn để tìm chìa khóa hay bản đồ gì đó, không thấy, và chuyển sang cánh cửa trong phòng, thật may mắn nó không khóa. Anh đẩy cửa, cảm thấy hy vọng lịm dần; chẳng có cái đường hầm lớn nào với dấu hiệu lối thoát hiểm cả. Có vẻ chỉ là một cái kho nằm trong ngạch tường, với vài bức tượng được che đậy quần áo xộc xệch. Có một bức không có lấy một mảnh che thân, làm bằng đá hoa cương trắng, nhìn giống như một trong các vị thần thời Rome, đang ngồi tựa vào tường, ánh mắt vô hồn nhìn thẳng lên, một tay khum gần dưới bụng –



- và cầm một vật gì đó. Màu xanh.



Billy bước qua, nhặt lấy vật thể nhỏ bé trong mấy ngón tay xanh xao của bức tượng, nở nụ cười nhợt nhạt khi nhận ra nó. Lại một con đỉa được chạm khắc, lần này màu xanh lá chứ không phải xanh lam.



Thêm một chìa khóa nữa, chắc là dành cho một cửa bí mật đâu đó. Và tin chắc nó sẽ dẫn họ ra ngoài.



oOo



Ngày Một



T được thử nghiệm với bốn con đỉa. Cấu trúc đơn bào khiến chúng trở thành những ứng viên hoàn hảo cho cuộc nghiên cứu, nhưng lại quá đơn giản để thích nghi. Kết quả quan sát cho thấy chưa có gì biến đổi.



Từ bốn được gạch dưới. Bên lề giấy, ai đó viết nguệch ngoạc mấy chữ ngoằn ngoèo “thay đổi thứ tự,” và khoanh tròn lại.



Đây là một phần nhật ký phòng thí nghiệm, hầu hết được ghi ngày và đánh số thứ tự. Rebecca tính trả nó về chỗ cũ, thì bỗng thấy có nhiều chữ và cụm từ được gạch dưới trong mấy trang cuối. Cô bèn đọc tiếp, chú ý tới những chỗ đánh dấu.




Giọng cô vẫn chưa hết bàng hoàng. Billy đến gần cửa, sẵn sàng chờ đón bất cứ thứ gì muốn nhảy xổ ra ngoài. Anh dừng bước cạnh con vật không đầu, mắt nhìn xuống.



”Trông nó giống sinh vật trong phim Creature from the Black Lagoon,” Billy nói và nhìn lên, hy vọng có người sẽ cười. Đáp lại anh là một nụ cười, tuy run run nhưng rất thật, và một lần nữa anh bị ấn tượng trước sự kiên cường của cô. Hiếm ai có thể phục hồi nhanh như vậy sau khi bị tấn công bất ngờ, nhất là bởi một con quái vật như thế này. Phần lớn mọi người sẽ run như cầy sấy suốt hàng giờ đồng hồ.



Rebecca đã đến bên cạnh anh. Cô lấy giày khều cái cẳng đồ sộ của con vật. ”Thật kinh ngạc,” cô nói. ”Về những thứ mà bọn họ tạo ra ở đây. Nghiên cứu di truyền, tổng hợp virus…”



”Tôi nghĩ từ ‘tâm thần’ là chính xác nhất.” Billy nói.



Cô gật đầu. ”Không sai chút nào. Để xem nó có bảo vệ thứ gì đáng giá hay không.”



Họ bước qua xác con vật, Rebecca kể lại những gì cô đã tìm được trên tầng một trong lúc cả hai vào phòng. Nơi này gần như một loại chuồng nhốt, và Billy không chút nghi ngờ rằng nó đã từng được sử dụng để nhốt lũ chó; có hàng đống cũi với chấn song bằng thép, nhiều cái quấn đầy dây lòi tói, chưa kể cái mùi hôi thối của động vật hoang dã nồng nặc trong không khí.



”…là nơi tôi tìm thấy chìa khóa vào phòng này,” cô đang nói. ”Tôi hy vọng tìm được thứ gì đó hữu ích ở đây.”



Căn phòng có dạng chữ U, khắp nơi ngổn ngang những kệ. Họ đi vòng quanh chúng, và Rebecca thốt lên một tiếng lộ vẻ kinh tởm. Xếp đầy trong góc là một đống lông rách bươm và những khúc xương gặm nham nhở, hiển nhiên là những gì còn lại của loài động vật bậc cao. Còn có nhiều bãi phân rải rác, nhiều đống gì đó vừa đen vừa dày, bốc mùi như thể - như thể mùi phân. Có vẻ con quái vật đã bị nhốt khá lâu.



Có một cái bàn gỗ chen giữa hai cái cũi, vài tờ giấy vương vãi trên đó. Billy thận trọng bước sang, và cầm lấy tờ trên cùng trong lúc Rebecca ngó qua vài cái cũi rỗng. Dường như đây là một phần của bản báo cáo.



…những nghiên cứu đến lúc này cho thấy, sức mạnh của Progenitor chính là kiểm soát được lối sống theo dạng quần thể, biến đổi mãnh liệt những tế bào khiến cho các hệ chính bị tàn phá, nhất là hệ thần kinh trung ương. Hơn nữa, chưa có biện pháp khả dĩ nào để điều khiển quần thể này như một vũ khí. Rõ ràng, sự kết hợp các tế bào ở cấp độ cao là cần thiết cho sự tăng trưởng không ngừng.



Những thí nghiệm trên côn trùng, động vật lưỡng cư, động vật bậc cao đều thất bại như đã dự tính. Có vẻ khó có thêm tiến triển nào nếu không sử dụng người làm quần thề chủ. Gợi ý của chúng tôi vào lúc này, là các sinh vật thí nghiệm nên được nuôi sống để nghiên cứu, và để làm mồi cho những vật lai thế hệ sau, trong khi chờ dòng Tyrant ra đời.



Chúa ơi. Billy lục lọi những trang giấy, tìm phần còn lại của báo cáo, nhưng chỉ thấy một mớ lịch làm việc lấm lem cà phê.



Dòng Tyrant. Tất cả những sinh vật chúng ta đã gặp… Và bọn họ đang nghiên cứu thứ gì đó dư sức làm gỏi hết tất cả các sinh vật đó.



”Ha!”



Billy ngó lên, thấy Rebecca vẫy vẫy một vật, nụ cười đắc thắng hiện trên khuôn mặt.



”Có ai muốn quay số không?”



Anh buông bản báo cáo xuống bàn. ”Đừng lừa phỉnh tôi chứ.”



”Không hề. Nó nằm trong một cái cũi.” Cô đưa vật đó cho Billy. Anh cầm lấy, cảm thấy mình cũng đang cười toe toét. Chính xác là thứ anh muốn tìm, một tay nắm tròn vừa vặn với lỗ khóa két sắt dưới tầng hai.



”Bốn tám sáu ba?” Billy hỏi, và Rebecca gật đầu.



”Bốn tám sáu ba,” cô lặp lại, bắt chéo ngón tay ra dấu chiến thắng. Billy cũng vậy. Chỉ là một động tác của lũ trẻ con, nhưng lúc này anh chẳng thèm dè chừng hành vi của mình nữa. Anh sẵn sàng tung hô bất cứ cái gì giúp được mình lúc này.



”Đi thôi,” anh nói, cảm thấy hy vọng tràn trề khi hai người rời khỏi căn phòng có con quái vật, hào hứng với những cảm xúc đang dâng trào. Có một câu ngạn ngữ, rằng hễ còn sống thì còn hy vọng. Billy đã từng nghe nó trong thời gian bị xét xử, lúc đó anh nghĩ nó thật hiển nhiên và ngu ngốc. Thật kỳ diệu và kinh ngạc làm sao, khi anh có thể chiêm nghiệm chân lý của nó qua cuộc chiến đấu sinh tồn trong bối cảnh hoàn toàn khác biệt.



Cả hai cùng quay lại phòng thí nghiệm. Ngón tay Billy vẫn còn bắt chéo.