Sói Thảo Nguyên

Chương 1 :

Ngày đăng: 14:36 19/04/20


Ngay phút đầu tiên nhìn thấy ông, khi ông bước qua tấm cửa kính vào nhà dì tôi, đầu nghếch lên như một con chin và tấm tắc khen trong nhà cô có mùi thơm, tôi đã thấy ngay một vẻ gì khác thường nơi người đàn ông này, và phản ứng khờ khạo đầu tiên của tôi là ác cảm. Tôi cảm thấy (dì tôi, ngược hẳn với tôi, hoàn toàn chẳng trí thức tí nào, cũng cảm thấy gần như thế) – tôi cảm thấy người đàn ông này bệnh hoạn, về tâm thần hoặc tình cảm hoặc tính khí gì đó, nên tôi đã phản kháng với bản năng của kẻ lành mạnh. Với thời gian, thái độ phản kháng này nhường chỗ cho lòng quý mến, dựa trên sự đồng cảm sâu sắc với con người triền miên đau khổ vô cùng tận này, mà tôi là người cùng chứng kiến tình cảnh ngày càng cô độc và cái chết dần mòn trong tâm can ông. Theo thời gian tôi rõ dần rằng bệnh tật này không phải do thể tạng ông thiếu kém gì, mà ngược lại do thiếu quân bình giữa tài năng sung mãn và thể lực của ông. Tôi nhận thấy Haller là thiên tài khổ đau, hiểu theo nghĩa một số câu nói của triết gia Nietzsch (1) , ông đã tạo trong con người mình một khả năng thần sầu, khủng khiếp, vô bờ bến để chịu đựng khổ đau, Đồng thời tôi nhận thấy không phải sự khinh miệt thế giới, mà sự khinh bỉ chính mình mới là nền tảng cho sự yếm thế của ông, vì khi ông mạt sát không khoan nhương và tàn tệ về những định chế hoặc cá nhân, ông không hề loại trù mình ra, mà luôn coi mình là đối tượng đầu tiên cho những mũi tên của ông, luôn là người đầu tiên ông căm ghét và bác bỏ…



(1) Friedrich Nietzsche (1944 – 1990): triết gia Đức, mới ngoài 30 tuổi đã phải chịu nhiều đau khổ vì bệnh tật.



Tôi phải thêm vào đây một nhận xét về tâm lý. Dẫu chỉ biết rất sơ sài về cuộc đời Sói Thảo Nguyên, toi vẫn có đầy đủ ký lẽ để cho rằng thuở nhỏ ông được mẹ cha cùng các vị thầy đầy nhân ái, nhưng nghiêm khắc và rất mộ đạo (1) dạy dỗ; họ lấy “bẻ gãy ý chí” làm nền tảng của việc giáo dục. Việc hủy hoại nhân cách và bẻ gãy ý chí nọ không thành công ở cậu học trò này, vì cậu quá kiên cường, vững chãi, biết tự hào và có sức mạnh tinh thần (2) .Thay vì hủy hoại nhân cách, lối giáo dục kia chỉ dạy được cậu một điều: tự căm ghét mình. Nay cả đời ông hướng mọi khả năng tưởng tượng thần sầu, vận dụng mọi sức mạnh trong suy nghĩ tự chống lại mình, chống lại đối tượng vô tội và cao quý ấy. Trong việc này, dẫu sao, ông vẫn là một người Cơ Đốc giáo hoàn toàn, một kẻ tuẫn đạo đúng nghĩa, nên mọi biện pháp gắt gao, mọi chê bai chỉ trích, mọi hành vi hiểm độc, mọi căm hận – mà ông tưởng tượng ra được – ông đều hướng tất cả vào mình trước hết. Với mọi người khác và thế giới xung quanh, ông luôn luôn cố gắng yêu thương họ bằng những hành động dũng cảm và nghiêm túc nhất, công tâm với họ, không làm họ đau khổ, vì ông ghi lòng tạc dạ câu “Ngươi phải yêu thương đồng loại” giống như luôn tâm niệm nỗi căm ghét chính mình vì thế nên cả cuộc đời ông là một thí dụ cụ thể cho thấy rằng, nếu không tự thương yêu mình thì cũng không thể thương yêu đồng loại, rằng mối căm ghét bản thân cũng tương tự như tính ích kỷ độc tôn, rốt cuộc nó tạo ra cùng một tình trạng cô lập và môi tuyệt vọng kinh hoàng nhất.



(1) Cha và ông ngoại tác giả từng là những nhà truyền giáo đạo Tin Lành ở Ấn Độ, sau đó vẫn tiếp tục các hoạt động liên quan đến tôn giáo ở Đức và Thụy Sĩ.



(2) Trong bức thư của bà mẹ tác giả viết cho chồng vào tháng tám năm 1881, có đoạn: “(…) thằng nhỏ này có (…) một ý chí mãnh liệt và một kiểu hiể biết quả thật khác thường ở tuổi lên bốn của nó”.



Nhưng bây giờ đã đến lúc tôi tạm gác qua một bên những suy nghĩ riêng của mình để nói về những sự kiện đã xảy ra thật. Điều đầu tiên tôi biết về ông Haller, một phần qua việc tôi lén lục soát phòng ông, phần khác qua những nhận xét của dì tôi, liên quan đến lối sống của ông. Tôi sớm nhận ra ông là một chuyên vùi đầu vào những suy tư cùng sách vở và không làm một nghề thực tế nào. Ông luôn dậy rất muộn, thường mãi gần trưa rồi choàng áo khoác lên bộ đồ ngủ, đi vài bước từ phòng ngủ sang phòng khách của mình, phòng khách này, trên gác sát mái nhà, rộng rãi và ấm cúng với hai cửa sổ, chỉ mới dau vài ngày trông đã khác lúc còn những người thuê trước. Đồ đạc chồng chất và càng ngày càng đầy ngập thêm lên. Trên các bức tường được treo tranh, gắn ảnh; vì thường là những bức vẽ cắt từ các tạp chí nên chúng thay đổi thường xuyên. Một bức phong cảnh miền Nam, những tấm hình chụp ảnh ở một thành phố nhỏ vùng quê nước Đức, hẳn là quê hương của Haller, xen vào đấy là những bức họa màu nước rực rõ mà mãi về sau chúng tôi mới biết do ông tự vẽ (1) . Rồi hình một thiếu phụ - cũng có thể là thiếu nữa – xinh đẹp. Có thời gian trên tường treo một bức tranh tượng Phật nước Xiêm, sau thay bằng một phiên bản họa phẩm “Đêm” của Michelangelo (2) , rồi một chân dung của Mahatma Gandhi. Sách vở không chỉ chất đầy chiếc tủ sách to mà còn nằm la liệt trên bàn, trên chiếc án thư cổ kính xinh xinh, trên đi văng, trên ghế, trên sàn; những mẫu giấy làm dấu kẹp trong các quyển sách ấy thay đổi chỗ thường xuyên. Lượng sách cứ tăng liên tục, vì ông không chỉ ôm từ thư viện về cả lô, mà còn nhận được thường xuyên bằng bưu kiện. Người ngủ trong căn phòng này hẳn phải là một học giả. Mùi khói thuốc bám trên mọi thứ cùng những mẩu thuốc, những chiếc gạt tàn rải rác khắp nơi lại càng phù hợp với hình ảnh ấy. Tuy nhiên phần lớn sách không thuộc loại khảo cứu mà là tác phẩm của cá nhà văn, nhờ thơ thuộc mọi thời đại và của mọi dân tộc. Có thời gian trên chiếc đi văng nơi ông thường nằm suốt ngày, lăn lóc đủ sáu quyển dày cộm của một tác phẩm tựa đề Chuyến du lịch của Sophie từ Memel tới Sachsen (3) xuất bản vào cuối thế kỷ 18. Một bộ toàn tập của Goethe và một của Jean Paul chừng như được dùng rất nhiều, cũng như Novalis, cả Lessing, Jacobi và Lichtenberg nữa. Vài quyển của Dostoyevsky (4) kẹp đầy những mẩu giấy dày đặc ghi chú. Trên chiếc bàn lớn, giữa các chồng sách và tạp chí, thường thấy có một bó hoa; một hộp vẽ màu nước cũng nằm lăn lóc ở đấy, luôn bám đầy bụi, bên cạnh là những chiếc gạt tàn thuốc và, cũng chẳng giấu giếm làm gì, đủ loại chai lọ đựng thức uống. Một cái chai bọc rơm thường đựng vang đỏ uống. Một cái chai bọc rơm thường đựng vang đỏ ông mua ở một cửa hàng nhỏ gần nhà, thỉnh thoảng có cả một chai Burgund cũng như Malaga và một chai to rượt anh đào mà tôi thấy chỉ trong một thời gian ngắn đã gần cạn, rồi bị vứt ở một góc phòng mặc cho bụi bám, phần rượu còn lại chẳng hề vơi đi. Tôi không muốn bào chữa cho trò do thám vặt của mình và thẳng thắn thú nhận rằng, trong thời gian đầu, tất cả những dấu hiệu này của một cuộc sống tuy đáp ứng những nhu cầu của trí tuệ song lại đi đôi với phung phí thời gian và bê tha, đã khiến tôi ghê tởm và nghi ngại. Tôi không chỉ là một công dân sống điều độ, có thói quen lao động và phân chia thời gian chính xác, mà còn không cả rượu chè, thuốc lá, thành thử những chai rượu trong phòng Haller còn khiến tôi ít thiện cảm hơn là quang cảnh hỗn độn như trong tranh vẽ ở đây.



(1) Ngoài viết văn, làm thơ, Hesse còn vẽ tranh.



(2) Michelangelo (1475 – 1564): nhà họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư trứ danh của Ý.


Thôi, tôi kể lan man như thế đủ rồi. Không cần thêm những tường thuật và miêu tả để cho thấy Sói Thảo Nguyên sống cuộc đời của một kẻ tự sát. Tuy nhiên tôi không tin rằng ông đã tự kết liễu đời mình, khi hồi đó ông đột ngột rời khỏi thành phố của chúng tôi mà không lời từ biệt và biến mất vào một ngày nọ, nhưng chỉ sau khi đã thanh toán đủ mọi khoản tiền còn thiếu. Dì cháu tôi không bao giờ còn nghe tin tức gì nữa về ông và vẫn còn giữ vài ba bức thư gửi đến ông sau đó. Ông không để lại gì ngoài tập cảo bản đã viết trong thời gian lưu lại đây cùng vài dòng ngắn ngủi tặng tôi với vài lời ghi chú cho phép tôi tùy ý làm gì với nó cũng được.



Tôi không thể nào kiểm chứng tính chân thực của những sự kiện tường thuật trong tập di cảo của Haller. Tôi không hề hoài nghi rằng chúng phần lớn là tưởng tượng, nhưng không phải theo nghĩa bịa đặt tùy tiện, mà theo nghĩa một thử nghiệm về cách diễn đạt, nhằm thể hiện những diễn biến từng trải sâu sắc trong tâm hồn dưới hình thức những biến cố ai cũng trông thấy được. Những sự cố phần nào kỳ quáy trong sự tưởng tượng của Haller có lẽ xảy ra vào khoảng cuối thời gian ông lưu lại đây, và tôi cho rằng chúng cũng dựa một phần trên những điều ông đã trải qua thực sự ngoài đời. Quả thật trong thời gian ấy người khách của chúng tôi đã có sự thay đổi trong cách cư xử và ngoại hình; ông rất hay vắng nhà, đôi khi suốt nhiều đêm, và không đụng tới sách vở. Qua vài lần gặp gỡ hẵn hữu hồi ấy, tôi thấy ông có vẻ sinh động và trẻ ra khác thường, đôi khi rõ ràng là đang có điều gì đấy khiến ông rất thú vị. Nhưng ngay sau đó là một cơn bệnh trầm uất nặng nề mới, ông nằm cả ngày trên giường, chẳng buồn ăn và cũng trong thời gian ấy nổ ra một trận cãi vã hết sức gay gắt, phải nói là dữ dội với người tình (1) tái hiện của ông, làm náo động cả nhà, khiến ngày hôm sua Haller phải xin lỗi dì tôi.



Không, tôi tin chắc ông không tự sát. Ông còn sống, ông đang lê đôi chân mệt mỏi lên xuống cầu thang những ngôi nhà lạ khác, đăm đăm nhìn đâu đó vào những dàn nhà lát gỗ lau chùi bóng loáng và những cây bách tán được chăm sóc sạch sẽ, ngồi suốt nhiều ngày trong những thư viện và suốt nhiều đêm trong các quán rượu hay nằm trên một chiếc đi văng thuê, nghe thấy con người và thế giới đang sống ở sau những ô cửa sổ, và biết rằng mình bị loại ra khỏi đó, nhưng ông không tự tử, vì mẩu niềm tin còn sót lại bảo rằng ông phải nếm trải nỗi đau khổ ấy, nếm trải cho đến cạn kiệt nỗi đâu khổ tệ hại trong trái tim ông và vì nỗi khổ này mà ông phải chết. Tôi không nguôi nghĩ đến ông, ông đã không làm cho đời tôi được thanh thản hơn, ông không có tài hỗ trợ và khuyến khích sở trường cùng hạnh phúc lẫn niềm hân hoan trong tôi, mà hỡi ơi, ngược lại! Nhưng tôi không phải là ông và tôi không sống theo kiểu của ông, mà của tôi, một cuộc sống trung lưu bình thường, nhưng ổn định và bận rộn vì những bổn phận phải chu toàn. Và như thế chúng tôi, tôi với dì tôi, có thể nghĩ đến ông, bình thản và trong tình bằng hữu. Dì tôi chắc có nhiều điều hơn là tôi để nói về ông, nhưng dì chôn giấu chúng trong trái tim nhân hậu của bà.



(1) Nhân vật người tình Erika này ngoài đời chính là nữ ca sĩ Ruth Wenger, vợ thứ hai của Hesse. Họ lấy năm năm 1924, nhưng không hạnh phúc, nên trong thời gian cùng lưu lại Basel mỗi người ở riêng một nơi, và cuối cùng ly hôn năm 1927.



Trở lại với những ghi chép này của Heller, về những tưởng tượng lạ lùng, bệnh hoạn có, mà hấp dẫn và đầy ắp tư tưởng cũng có, thì tôi phải nói rằng nếu những tờ giấy này ngẫu nhiên lọt vào tay tôi mà tôi không quen biết tác giả của chúng, chắc chắn tôi sẽ phẫn nội quẳng đi ngay. Nhưng do mối quan hệ quen biết với Haller nên tôi có thể hiêu được chúng phần nào, thậm chí tán thành nữa là khác. Tôi sẽ rất đắn đo trong việc truyền đạt chúng tới người khác, nếu chỉ thấy trong đó những tưởng tượng mang tính bệnh lý của riêng một tâm hồn bệnh hoạn đáng thương. Nhưng tôi thấy trong đó chất chứa điều gì hơn thế, một tư liệu của thời đại, vì bệnh tâm thần của Haller – nay tôi biết điều này – không phải là thói dở hơi của riêng lẻ một ngườ, mà chính là bệnh của thời đại, là chứng loạn thần kinh của thế hệ trong đó có Haller, và dường như không chỉ những cá nhân yếu đuối và thấp kém mới mắc phải, mà đúng hơn lại là những con người giàu thể lực, trí lực nhất, tài ba nhất. Những ghi chép này – bất kể chúng dựa trên trải nghiệm thực tế nhiều hay ít – là một nỗ lực nhằm vượt thắng căn bệnh tràn lan của thời đại, không phải qua tránh né vòng vo hay tô son vẽ phấn, mà bằng cách cố gắng đưa căn bệnh đó lên làm đối tượng để thể hiện thời đại. Chúng đúng là một cuộc hành trình xuyên địa ngục, theo nghĩa đen, lúc thì ta thấy kinh hãi, khi khác lại anh dũng táo bạo, vượt qua sự hỗn mang của một thế giới nội tâm âm u, một cuộc hành trình quyết chí băng qua địa ngục, thách thức sự hỗn mang và chịu đựng bị cái ác hành hạ cho đến giờ phút cuối.



Một lưu ý của Haller đã cho tôi chìa khóa để thấy đạt nhận thức trên. Có lần, sau khi chúng tôi trò chuyện về cái gọi là những điều dã man thời Trung Cổ, ông bảo tôi: “Thật ta những điều dã man này không có thực. Một người thời Trung Cổ hẳn sẽ đánh giá mọi cung cách trong đời sống chúng ta ngày nay một cách khác hẳn; y sẽ kinh tởm cho như vậy là vô cùng tàn bạo, khủng khiếp và man rợ! Mỗi thời đại, mỗi nền văn hóa mỗi tập tục và truyền thống đều có cung cách của nó, xác định mức độ từ khoan dung đến hà khắc, đặt tiêu chuẩn thế nào là thiện mỹ hay tàn ác, coi một số nỗi thống khổ là đương nhiên và nhẫn nại chấp nhận một số hiện tượng xấu xa nào đấy. Đời người chỉ thật sự thống khổ, thật sự biến thành địa ngục khi hai thời đại, hai nền văn hóa và tôn giáo chồng chéo lên nhau. Một người thời Thượng Cổ nếu phải sống trong thời Trung Cổ hẳn sẽ chết ngộp một cách khốn khổ, hệt như một thổ dân vùng hoang dã hẳn sẽ chết ngộp giữa nền văn minh của chúng ta. Có những thời kỳ mà cả một thế hệ lạc loài vào giữa hay thời đại, giữa hai phong cách sống như thế, khiến nó mất đi mọi khả năng thấy mình đương nhiên được quyền hiện hữu, mất đi mọi tập tục, cảm tưởng được bảo bọc, và mất đi tính hồn nhiên vô tư. Tất nhiên không phải ai cũng cảm thấy điều ấy với mức độ như nhau. Trước đây hơn một thế hệ, một người với bản chất như Nietzsche đã phải chịu đựng nỗi thống khổ của thời bây giờ rồi – nay hàng nghìn người phải hứng chịu những gì Nietzsche từng nếm trải qua cô đơn mà không ai thấu hiểu”.



Tôi thường nghĩ tới lời nói ấy khi đọc tập bút ký này, Haller thuộc vào những người sa chân lạc bước vào giữa hai thời đại, những kẻ bị văng ra khỏi sự được bảo bọc và tính vô tư, ông thuộc những kẻ vướng nghiệp dĩ phải trải nghiệm mọi vấn nạn của đời người bằng nỗi thống khổ của riêng mình ở địa ngục trần gian.



Theo tôi thì ý nghĩa có thể rút ra từ tập bút ký của ông để lại cho chúng ta nằm ở điểm này, vì thế tôi đã quyết định công bố nó, mà không có ý bênh vực phán xét; điều này xin để tùy lương tâm của mỗi đọc giả.