Tào Tặc
Chương 268 : So sư cũng phải có lý
Ngày đăng: 00:04 22/04/20
Đêm cuối xuân tiết trời nhiều thay đổi.
Khi vạn vật bắt đầu nảy nở, người người cùng nhộn nhịp đi lại trên đường, phiên chợ rộn ràng có thể thấy được từ ngay đầu đường. Đúng giờ tuất, trời đã sẩm tối. Cửa hàng hai bên đường phố đốt đèn đuốc sáng trưng thắp lên bao thú vui ban đêm chốn đô thành.
Tào Bằng không cưỡi Chiếu Dạ Bạch mà ngồi trên một chiếc xe bò.
Cửa xe mở, gió đêm thổi hiu hiu.
Ngồi trong xem Tào Bằng quên đi mọi phiền muộn.
Hạ Hầu Lan cưỡi ngựa đi bên cạnh. Một gã Phi Mạo đánh xe, Sử A đã đi trước. Đoàn người thong thả đi dọc con đường dài, ngắm cảnh trí hai bên hiện ra trước tầm mắt.
Tào Bằng ngồi trên xe cũng hết sức nhàn nhã, ung dung.
Nhai tự Kim Cương nghe ra thì có vẻ rất xa lạ.
Nhưng nếu nhắc đến cái tên đời sau của nơi này, có lẽ không có ai là không biết: Chùa Bạch Mã! Chùa Bạch Mã là cái tên rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, là một trong ba chùa lớn có đầu tiên của trung Quốc, bao gồm: Huỳnh Dương động lâm tự, Long Môn Hương sơn tự, và chùa Bạch Mã. Tuy lúc đầu, tên của chùa Bạch Mã vốn là Kim Cương nhai tự, ý nói đến ý chí vững vàng như kim cương.
Tương truyền, Hán Minh đế Lưu Trang đêm ngủ ở Nam Cung, nằm mộng thấy một vị thần nhân màu sắc vàng kim, trên thân tỏa ra ánh hào quang màu trắng, ánh sáng này bao phủ hết cả cung điện. Ngày hôm sau, bậc đế vương biết được vị kim thần trong mộng chính là kim cương trong Phật môn, vì thế bèn phái các sứ giả là Thái Âm, Tần Cảnh tới Tây Vực cầu phật. Lúc này, Phật giáo còn được gọi là Phù Đồ giáo, được truyền từ Tây Hán vào Trung Nguyên, nhưng vốn không có nhiều người thừa nhận tôn giáo này. Tuy nhiên ở Tây Vực lại có rất nhiều quốc gia nhìn nhận phật giáo là quốc giáo.
Như Ô Tôn, Sơ Lặc, Quy Tư còn lấy Phù Đồ làm thuật trị quốc.
Hai người họ Thái và Tần kia gặp được một vị tăng nhân của Thiên Trúc là Già thập Ma Đằng (tên là Nhiếp Ma Đằng) và Trúc Pháp Lan. Vì thế, bọn họ bèn mời hai người này đến Lạc Dương để giảng giải về Phật hiệu. Đây cũng chính là câu chuyện xưa nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo: Vĩnh Bình cầu pháp. Tuy nhiên, đó chẳng qua cũng chỉ là ghi chép trong sử sách của Phật giáo, không ai biết được rốt cuộc mọi chuyện có đúng như thế không. Dù sao, Già thập Ma Đằng và Trúc Pháp Lan tới đây cũng là để giảng giải cho Lưu Trang nghe Phật hiệu. Sau này, Hán Minh đế liền sắc lệnh xây một ngôi chùa dựa theo kiểu dáng ở Thiên Trúc, nằm ở giữa núi Bắc Đặng và Tuy Thủy, chọn một ngôi chùa để tu sửa lại.
Chính vì thế lúc ban đầu, chùa Bạch Mã vốn là "Quan thự" ( hay "tự" - tức nơi quan chức làm việc), rồi trở thành nơi quản lý tất cả các tăng nhân tới Trung Nguyên truyền pháp.
Nếu muốn truyền pháp, nhất định phải chịu sự kìm kẹp của chùa Bạch Mã, nếu không được triều đình bảo hộ sẽ bị quan phủ coi là tà giáo.
Chủ trì chùa Bạch Mã gọi là Bạch Mã Tự khanh, không có phẩm hàm trong triều đình nhưng mỗi tháng đều lĩnh bổng lộc của triều đình.
Già thập Ma Đằng và Trúc Pháp Lan ở chùa Bạch Mã lúc đầu gọi nơi này là Kim Cương nhai tự. Sau này, khi hai người ở đây, khổ tâm biên dịch cuốn "Tứ thập nhị chương kinh" trở thành cuốn kinh văn Hán ngữ đầu tiên được biên dịch trong nước. Sau khi "Tứ thập nhị chương kinh" được biên dịch xong, Hán Minh đế liền nhân chuyện con ngựa bạch mã chở kinh Phật năm ấy, lấy cớ đó mà sửa Kim Cương nhai tự làm chùa Bạch Mã. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều người quen gọi nơi này là Kim Cương nhai tự. Truyện được copy tại Truyện FULL
Kiếp trước, Tào Bằng cũng từng tới chùa Bạch Mã.
Nhưng thật ra, ngoài chuyện nhìn thấy một đống người, hắn cũng chỉ bỏ tiền dâng hương, không hề lĩnh ngộ chút gì gọi là Phật pháp cao thâm cả.
Mà những năm cuối thời Đông Hán, do ảnh hưởng của chiến loạn, chùa Bạch Mã sớm đã không còn chịu sự quản thúc của triều đình mà trở thành một ngôi chùa độc lập. Những người tín Phật, đặc biệt sau khi Đổng Trác rời đô, hầu hết mọi người ở Lạc Dương bắt đầu thờ phụng đức Phật, trở thành tín đồ Phật môn, cống hiến gia sản.
Chính vì thế, trong chiến tranh, chùa Bạch Mã không bị ảnh hưởng nhiều lắm, thậm chí còn trở nên hưng thịnh hơn nữa.
Khi Tào Bằng đến chùa Bạch Mã, Sử A đã chờ bên ngoài tự được khá lâu. Vừa thấy Tào Bằng, gã tức thì hăng hái tiến lên đón:
-Công tử, sao giờ mới đến đây?
-Trên đường ta mải mê thưởng thức cảnh đêm, thế nên mới đến chậm. Sử đại hiệp chớ trách cứ.
-Công tử khách khí rồi. Hôm nay vừa đúng có mấy người hảo bằng hữu ở đây, nghe đại danh công tử, bọn họ đều muốn tiếp kiến. Sử A mạo muội làm chủ, mong rằng công tử thứ lỗi cho.
Trên đường đến chùa Bạch Mã, Tào Bằng đã nghĩ tới chuyện này rồi, thế nên cũng không quá để ý.
Hắn khẽ mỉm cười:
-Sử đại hiệp, ngươi cũng quá khách khí rồi!
Chu Tán nói không sai, bản thân hắn hiện đang phải mưu cầu thanh danh, mỗi hành động, lời nói đều cần phải thật chú ý.
Sử A này quá nặng khí của kẻ giang hồ.
Chính vì thế, khi giao tiếp với gã phải thật thận trọng.
Đôi mâu quang của Nhạc Quan như nước, đảo qua nhìn Tào Bằng.
Không biết vì sao, Tào Bằng chợt giật mình.
Những năm cuối thời Đông Hán, Phật giáo vẫn chưa phát triển rầm rộ.
Chính vì thế, bên trong chùa chiền vẫn còn chưa có đủ loại thanh quy, giới luật như sau này, tổ chức hãy còn rời rạc. Người xuất gia không nhất định phải cạo trọc đầu, cũng vẫn có thể tu hành. Nhạc Quan chắc hẳn cũng là như vậy, chính vì thế khi Huyền Thạc giới thiệu chỉ gọi nàng là cư sĩ, am chủ.
Tào Bằng không hiểu rõ lắm về sự phát triển của Phật giáo nhưng ít nhiều hắn cũng biết rằng cái gọi là "Am" trong phật giáo là để chi nơi ni cô tu hành. Tuy nhiên, ở thời đại này, mọi người đều có thói quen gọi là sư.
Chính vì thế, Nhạc Quan cũng có thể gọi là sư quan.
Chỉ có điều, bên cạnh chùa Bạch Mã tại sao lại có một tòa ni cô am như vậy?
Tào Bằng không có chút ấn tượng nào về chuyện này.
Ít nhất, trong trí nhớ của kiếp trước của hắn, khi hắn du ngoạn chùa Bạch Mã, chưa từng nghe nói đến một tòa Ni cô am kỳ lạ như thế.
Có đất chùa chiền, tất có ni cô am.
Tào Bằng lén quan sát Nhạc Quan, chỉ cảm thấy tiểu ni cô này không giống người xuất gia, ngược lại còn phong tình vạn chủng, từng cái giơ tay, bước chân đều có ý hút hồn người.
Thật là một tiểu ni cô lẳng lơ, quyến rũ!
Tào Bằng không nén được lại quay sang nhìn Huyền Thạc, lại nhìn Nhạc Quan, thầm suy đoán: "Phải chăng hai người này có tình cảm với nhau?"
Người ở hậu thế cũng từng có những chuyện như thế này, thế nên Tào Bằng không có gì trách cứ cả.
Tuy nhiên nhìn diện mạo của Huyền Thạc, Tào Bằng chợt không còn ý nghĩ này nữa. Vì sao? Vì diện mạo của Huyền Thạc thực sự là khó nhìn, làn da đen nhánh, gương mặt không biết có phải bị phỏng không, vết thương nhăn nhúm, khiến người khác không muốn nhìn lâu.
Vị ni cô phong tình kia chắc chắn sẽ không để mắt đến Huyền Thạc.
-Lần đầu được gặp Tào công tử, ni thất lễ rồi!
"Ni" là dịch từ âm tiếng Phạn, có nghĩa chỉ nữ nhân. Nếu dịch ra, có thể hiểu đại khái là "tiểu nữ thất lễ rồi". Đây là cách xưng hô của các sư, người thường không sử dụng đến. Mà từ ni cô ở thời đại này vẫn còn chưa xuất hiện, mãi cho đến thời kỳ Đông Tấn mới có chữ "Ni cô". Tuy nhiên, ni cô lúc ấy là từ để chỉ các vị sư có phẩm chất cao quý của đức Phật.
Nhạc Quân nói giọng Lạc Dương, dịu dàng, ôn nhu, khiến người nghe mê đắm.
Tào Bằng vội vàng đáp lễ:
-Không biết cư sĩ đến, thật là Tào Bằng đã thất lễ rồi.
-Cúc Hoa Tiên, nàng bày ra dáng điệu như thế là vì coi trọng gã công tử bột này sao?
Tào Bằng nhìn theo phía phát ra giọng nói, chỉ thấy Chúc Đạo đang cười ầm ĩ.
Ngọc diện của Nhạc Quan trầm xuống, nàng chợt cười lạnh:
-Chúc Công, sao không làm bạn với Ngọc Lâm Nhi của ngươi mà lại chạy tới chùa Bạch Mã uống rượu với cư sĩ thế này?
Gương mặt của Chúc Đạo tức thì đỏ bừng, thoáng có chút giận dữ.
Đây là mối quan hệ lung tung, lộn xộn gì thế này?
Ngọc Lâm Nhi là ai?
Tào Bằng chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng sự phẫn nộ đối với Chúc Đạo trong lòng hắn lại tăng thêm mấy phần.