Thiên Thần Và Ác Quỷ

Chương 14 :

Ngày đăng: 13:22 19/04/20


Langdon bước khỏi toà nhà C, ra ngoài trời, vui mừng vì được thoát khỏi căn hộ của Vetra. ánh nắng mặt trời giúp anh gạt bỏ hình ảnh hốc mắt trống hoác khỏi tâm trí.



- Lối này, ông Langdon. - Kohler nói rồi quay lên một con dốc. Chiếc xe lăn nhẹ nhàng tăng tốc. - Cô Vetra sẽ về bất cứ lúc nào.



Langdon vội vã leo theo.



- Vậy thì, - Kohler hỏi. - Ông còn nghi ngờ về sự dính líu của Illuminati nữa không?



Langdon không biết phải nói thế nào. Các mối quan hệ tôn giáo của Vetra nhất định có vấn đề, nhưng Langdon cũng không thể từ bỏ những chứng cứ khoa học mà anh đã nghiên cứu. Bên cạnh đó, con mắt…



- Tôi vẫn cho rằng, - Langdon nói, giọng mạnh mẽ bất ngờ - Illuminati không thể chịu trách nhiệm trong chuyện này. Con mắt bị mất là một bằng chứng.



- Gì cơ?



- Lấy đi một bộ phận, - anh giải thích, - thật… không giống cung cách của Illuminati chút nào. Các nhà nghiên cứu nghi lễ tôn giáo đều cho rằng cách cắt rời một bộ phận làm biến dạng khuôn mặt là của những kẻ cực đoan non nớt "những kẻ cuồng tín tuỳ tiện hành động khủng bố", còn hội Illuminati vốn thận trọng hơn nhiều.



- Thận trọng ư? Phẫu thuật cắt bỏ nhãn cầu của ai đó mà là thận trọng?



- Hành động đó chẳng chuyển tải thông điệp gì cả, không phục vụ cho một mục đích cao cả nào hết.



Chiếc xe lăn của Kohler đột ngột dừng trên đỉnh đồi. Ông ta quay lại.



- Ông Langdon, tin tôi đi, con mắt bị mất tích đó thực sự được dùng cho một mục đích quan trọng hơn… quan trọng hơn rất nhiều.



Khi hai người đàn ông vượt qua bãi cỏ cao ngút, họ nghe thấy tiếng đập phành phạch của cánh quạt chiếc máy bay từ phía tây vọng lại. Một chiếc trực thăng xuất hiện, vòng quanh thung lũng rồi tiến về phía họ. Nó nghiêng mạnh, rồi từ từ lượn trên bãi đỗ được sơn vạch trên cỏ.



Langdon đứng tách ra ngắm nhìn, đầu óc anh quay cuồng y hệt như những cánh quạt máy bay, không hiểu liệu một đêm ngủ đẫy giấc có thể làm mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu anh sáng sủa hơn chút nào không. Dù sao thì một giấc ngủ lúc này cũng thật xa vời.



Khi máy bay hạ cánh, một viên phi công nhẩy xuống, bắt đầu dỡ các dụng cụ - những bộ đồ nghề, những túi nhựa dẻo còn ướt, bộ đồ lặn, và vô số thứ trông như những thiết bị công nghệ cao.



Langdon bối rối.



- Đấy là đồ nghề của cô Vetra à? - Anh gào lên át tiếng động cơ máy bay.



Kohler gật đầu và gào lại.



- Cô ta đang tiến hành nghiên cứu sinh học trên biển Balearic 1.



- Tôi tưởng cô ấy là nhà vật lí cơ mà!



- Đúng đấy. Cô ấy là nhà vật lí sinh học, nghiên cứu mối liên hệ trong hệ sinh thái. Công việc của cô ấy liên quan chặt chẽ với công trình nghiên cứu vật lí hạt của Vetra. Gần đây, cô ấy đang phủ nhận một trong những học thuyết cơ bản của Anhxtanh bằng cách ghi lại sự phối hợp từ khi quan sát một đàn cá ngừ.



Langdon nhìn kỹ xem trên khuôn mặt chủ nhà có pha chút hài hước nào không. Anhxtanh và đàn cá ngừ? Anh bắt đầu băn khoăn liệu có phải chiếc X-33 đã thả nhầm anh lên một hành tinh khác không?



Một lúc sau, Vittoria Vetra mới ra khỏi máy bay. Robert Langdon phải thừa nhận rằng hôm nay là một ngày của hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vittoria Vetra bước xuống máy bay, mặc chiếc quần soóc vải ka ki và áo không tay màu trắng, không hề giống một nhà khoa học chỉ biết tối ngày chúi mũi vào sách vở như anh vẫn tưởng. Cô gái này cao ráo, làn da màu hạt dẻ, mái tóc đen dài bị luồng gió mạnh từ cánh quạt động cơ phả ra thổi tung lên, thật mềm mại và duyên dáng. Khuôn mặt của Vittoria mang nét đặc trưng Italia - không quá đẹp nhưng đầy đặn, một vẻ đẹp đầy trần tục, đến nỗi dù cách cô gần 20 mét, Langdon vẫn thấy xao xuyến. Luồng gió mạnh từ cánh quạt máy bay khiến cho bộ quần áo ép sát vào thân hình thon thả và bộ ngực nhỏ của cô gái trẻ.



Cô Vetra là một phụ nữ có sức mạnh phi thường, - Kohler nói, dường như dọc được thái độ đắm đuối của Langdon. - Cô ấy đã từng làm việc ở những khu vực sinh thái nguy hiểm suốt hàng tháng trời. Một người ăn kiêng nghiêm ngặt và chuyên gia Hatha Yoga 2 trong khu tập thể của CERN. Hatha Yoga? Langdon cười thầm. Nghệ thuật thiền định cổ xưa của đạo Phật khó có thể phù hợp với con gái của một linh mục Cơ đốc giáo.



Langdon ngắm Vittoria khi cô tiến lại gần anh. Cô gái chắc đã khóc rất nhiều, và đôi mắt nâu lúc này tràn ngập những cảm xúc mà Langdon chưa thể gọi tên. Tuy nhiên, dáng điệu của Vittoria vẫn tỏ ra mạnh mẽ và kiên quyết. Làn da rám nắng của vùng Địa Trung Hải ánh lên trên đôi chân mạnh mẽ và săn chắc.



- Vittoria, - Kohler nói khi cô đến gần họ. - Tôi thành thật chia buồn. Đây là một tổn thất cực kỳ to lớn đối với khoa học… đối với tất cả chúng ta ở CERN.



Vittoria gật đầu vẻ biết ơn. Cô gái cất tiếng nói với một chất giọng thật du dương mượt mà:



- Đã tìm được hung thủ chưa?



- Chúng tôi đang nỗ lực tìm kiếm.



Cô gái quay sang Langdon, chìa cánh tay mánh mai về phía anh.



Tên tôi là Vittoria Vetra. Ông là người của Interpol, đúng không?



Langdon bắt tay cô gái, và ngay lập lức anh bị ánh mắt sâu thẳm nỗi buồn ấy hút mất hồn.



- Robert Langdon. - Anh không biết nên nói thêm gì nữa.



- Ông Langdon không phải là nhà chức trách, - Kohler giải thích. -Ông ấy là một chuyên gia đến từ nước Mỹ. Ông Langdon sẽ giúp chúng ta tìm ra kẻ đã gây ra chuyện này.



Vittoria có vẻ hoài nghi.



- Thế còn cảnh sát?



Kohler chỉ thở dài, không nói gì.



- Thi thể của cha tôi giờ ở đâu? - cô hỏi.



- Đang được chăm sóc cẩn thận.



Langdon ngạc nhiên trước lời nói dối trắng trợn này.



- Tôi muốn được ở bên ông ấy. - Vittoria nói.



- Vittoria, - Kohler vội vã. - Cha cô đã bị sát hại một cách dã man. Tốt hơn hết là cô hãy nhớ về ông ấy với những hình ảnh ngày xưa.



Vittoria định nói gì đấy nhưng bị ngắt lời.



- Xin chào, Vittoria! - xa xa có vài người gọi - Chào mừng trở về nhà!



Cô quay lại. Một nhóm các nhà khoa học đang đi đến gần bãi trực thăng. Họ vui vẻ vẫy chào.



- Cô còn phủ nhận thêm thuyết nào của Anhxtanh nữa không? - Một người gọi to.



Một người khác đế vào:



- Cha cô hẳn phải tự hào lắm!



Vittoria vụng về vẫy chào lại khi họ đi ngang qua. Rồi cô quay sang Kohler, mặt đầy vẻ khó hiểu.



- Không ai biết chuyện này sao.



- Tôi cho rằng sự thận trọng là thứ quan trọng nhất.



- Ông vẫn chưa nói với các nhân viên khác là cha tôi bị giết hại? - Vẻ phẫn nộ bắt đầu lộ rõ trong âm giọng trầm trầm của cô gái trẻ.



Trong phút chốc Kohler trở nên cứng rắn.



- Có lẽ cô quên mất một điều, cô Vetra ạ, một khi tôi báo cáo về cái chết của cha cô, người ta sẽ tiến hành điều tra ở CERN. Toàn bộ phòng thí nghiệm của ông ấy sẽ bị khám xét. Tôi tôn trọng thế giới riêng của cha cô. Có hai việc cha cô từng nói với tôi về dự án đang thực hiện. Việc thứ nhất, dự án này sẽ đem đến cho CERN tiền triệu từ các loại hợp đồng trong thập kỷ tới. Và thứ hai, nó không nên được tiết lộ trước công chúng bởi vì đây vẫn là một công nghệ nguy hiểm. Sau khi suy nghĩ về hai điều này, tôi thấy tốt hơn hết là không nên để người lạ nhòm ngó phòng thí nghiệm của ông ấy cũng như ăn cắp công nghệ hoặc tự hại mình rồi đổ hết lên đầu CERN. Tôi diễn đạt như thế đã rõ chưa?



Vittoria nhìn lại, không thốt lên được lời nào. Rõ ràng là cô buộc phải tôn trọng và chấp nhận những lập luận hết sức lôgíc của Kohler.



- Trước khi chúng ta báo cho nhà chức trách, - Kohler nói, - Tôi cần biết hai cha con cô đã làm gì. Tôi muốn cô đưa chúng tôi tới phòng thí nghiệm.



- Chẳng có gì liên quan ở phòng thí nghiệm,, Vittoria nói.- Không ai biết cha con tôi đang làm gì. Thí nghiệm này không thể dính dáng tới cái chết của cha tôi.



Kohler thở dài não nề.



- Nhưng bằng chứng lại cho thấy điều ngược lại.



- Bằng chứng? Bằng chứng nào?



Langdon cũng thấy băn khoăn về điểm này.



Kohler đưa tay lên xoa miệng:



- Rồi cô sẽ tin tôi ngay thôi.



Ánh mắt đầy phẫn nộ của Vittoria cho thấy cô gái trẻ không hề tin những lời vừa nghe thấy.



--- ------ ------ ------ -------



1 Biển Balearic: Vùng biền nằm trong khu vực Địa Trung Hải, gần Tây Ban Nha, Pháp.



2 Hatha Yoga: Nền tảng của các môn Yoga, ha (mặt trời) và tha (mặt trăng) là sự cân bằng khi thiền định, thư giãn và nghỉ ngơi (nguồn Wikipedia).





Langdon lặng lẽ sải bước theo sau Vittoria và Kohler khi cả ba quay trở lại nơi mà anh vừa phải chứng kiến cảnh tượng kinh khủng ấy. Bước chân Vittoria nhịp nhàng uyển chuyển – hệt như một vận động viên lặn đẳng cấp Olympic – dáng vẻ dẻo dai, theo như Langdon phỏng đoán, là biểu hiện của sự linh hoạt và hài hoà mà Yoga mang lại. Anh nhận thấy cô gái đang thở rất đều đặn và chậm rãi, như thể đang cố gắng kiềm chế nỗi đau.



Langdon muốn nói với cô gái một điều gì đó, những lời cảm thông, rằng anh cũng đã từng trải qua cảm giác trống vắng đến không chịu đựng nổi khi bất ngờ mất đi người cha yêu dấu. Anh nhớ nhất là ngày tang lễ. Đó là một ngày mưa sụt sùi, bầu trời u ám chỉ cách hai ngày sau sinh nhật lần thứ 12 của anh. Những đồng nghiệp của cha, tất cả đều vận quần áo màu xám, kéo đến chật nhà. Tất cả bọn họ đều nắm chặt tay anh và nhắc đi nhắc lại những từ như bệnh tim và stress. Nước mắt giàn giụa, mẹ anh đùa rằng chỉ cần cầm tay cha là bà đã cầm chắc phần thắng ở thị trường chứng khoán, vì mạch đập của ông chính là chiếc đồng hồ vạn năng đối với bà…



Một lần, khi cha còn sống, Langdon nghe thấy mẹ van nài cha “Hãy nghỉ ngơi một chút để thưởng thức vẻ đẹp của hoa hồng”.



Năm đó, Langdon mua tặng cha một bông hồng ép trong bình thuỷ tinh nhân dịp Giáng sinh. Đó là bông hoa đẹp nhất mà anh từng trông thấy… những tia nắng mặt trời chiếu rọi vào chiếc bình đều hoá thành những dải sáng màu cầu vồng rực rỡ, chiếu rọi lên bức tường gần đó.



- Đẹp lắm! – cha nói khi mở gói giấy ra rồi hôn lên trán Langdon. – Cha con ta hãy tìm cho chiếc bình này một vị trí thích hợp nào!



Rồi ông cẩn thận cất chiếc bình trên một cái giá đầy bụi, trong góc tối nhất ở phòng khách. Vài ngày sau, Langdon bắc ghế đẩu để lấy chiếc bình xuống, đem trả lại cửa hàng. Cha anh không bao giờ biết rằng bông hoa đã biến mất.



Tiếng chuông thang máy kéo Langdon quay trở về thực tại. Cả Vittoria và Kohler đều đang đứng trước mặt anh, chuẩn bị bấm nút. Langdon vẫn đang ngập ngừng bên ngoài cánh cửa.



- Sao thế? – Kohler hỏi, với vẻ sốt ruột hơn là quan tâm.



- Không có gì, – Langdon trả lời, nặng nề bước vào thang máy chật hẹp. Anh chỉ sử dụng thang máy khi nào thực sự cần thiết, dù sao thì cầu thang bình thường vẫn thoáng đãng hơn nhiều.



- Phòng thí nghiệm của tiến sĩ Vetra nằm dưới tầng hầm. – Kohler nói.



Tuyệt vời, Langdon thầm nghĩ khi anh cảm nhận được luồng gió mát lạnh thổi lên từ sâu dưới hầm. Cánh cửa đóng lại và thang máy bắt đầu đi xuống.



- Sáu tầng nhà, – Giọng nói của Kohler nghe lạnh lẽo như được phát ra từ một cỗ máy.



Langdon hình dung ra bóng tối phủ đầy căn hầm trống phía dưới. Anh cố xua đuổi ý nghĩ ấy đi bằng cách nhìn chăm chăm vào bảng chỉ dẫn trên thang máy. Kỳ lạ thật, thang máy này chỉ hiển thị hai chặng đến là TẦNG HẦM VÀ LHC.



- LHC nghĩa là gì? – Langdon hỏi, cố không để cho giọng nói trở nên run rẩy.



- Máy gia tốc hạt Hadron, – Kohler nói – Một loại máy gia tốc hạt.



Máy gia tốc hạt? Langdon rất mơ hồ về khái niệm này. Lần đầu tiên anh nghe đến nó khi đang ăn tối với mấy ông bạn đồng nghiệp ở Dunster House thuộc Cambridge. Một người bạn, nhà vật lí Bob Brownell,, đã đến muộn, vẻ mặt đầy tức giận.



- Lũ khốn đó bác bỏ rồi! – Brownell lầm bầm chửi rủa.



- Bác bỏ cái gì? – tất cả đồng thanh hỏi.




Ngọn đuốc hắn đang cầm trong tay sẽ trở nên vô cùng lợi hại.



Hắn biết điều đó. Phải thế mới được việc. Hiệu quả chính là điều quan trọng nhất. Tên sát thủ biết. rằng nỗi sợ hãi luôn là đồng minh cửa hắn. Cảm giác sợ hãi lan nhanh hơn bất cứ loại vũ khí nào khác.



Trong đường hầm không có tấm gương nào để tên sát thủ tự chiêm ngưỡng tài hoá trang của hắn, nhưng nhìn vào bóng chiếc áo thầy tu trải dài trên lối đi, hắn biết rằng khâu hoá trang của hắn vô cùng hoàn hảo. Đóng giả là một phần trong kế hoạch… một phần của điệp vụ. Tên sát thủ chưa bao giờ dám mơ đến một niềm vinh hạnh nhường này, kể cả trong những giấc mơ điên khùng nhất.



Hai tuần trước đây, hắn đã cho rằng nhiệm vụ mà hắn sắp thực hiện ở đầu kia của đường hầm là không khả thi. Làm thế chẳng khác nào tự sát. Tay không dẫn xác vào hang hùm. Nhưng Janus đã làm thay đổi định nghĩa của cụm từ bất khả thi.



Chỉ trong vòng hai tuần vừa rồi, Janus đã tiết lộ với tên sát thủ không biết bao nhiêu điều bí mật… đường hầm này chỉ là một trong số ấy. Quả là cũ kỹ, nhưng vẫn còn tốt.



Cần đến sào huyệt của kẻ thù, kẻ giết người băn khoăn không hiểu mọi sự có suôn sẻ và dễ dàng đúng như lời hứa của Janus hay không. Janus đã nói chắc như đinh đóng cột rằng một nội gián trong toà thánh đã sắp xếp hết mọi thứ cần thiết. Có kẻ nội gián bên trong. Thật không tin nổi. Càng nghĩ, hắn càng thấy chuyện này giống hệt trò trẻ con.



Wahad… tintain… thalatha… arabaa, hắn tự nhủ bằng tiếng Ả-rập khi tiến gần đến cuối đường hầm. Một… hai… ba… bốn…





- Hình như ông đã từng nghe nói đến phản vật chất, phải thế không ông Langdon? – Vittoria đang nhìn anh chăm chú. Nước da màu nâu sẫm của cô gái tạo nên một sự lương phản đầy ấn tượng với màu trắng của phòng thí nghiệm.



Langdon ngước mắt lên. Đội nhiên anh trở nên ấp úng:



- À… Ừm… đại loại như thế.



Cô gái thoáng mỉm cười:



- Tức là anh đã xem bộ phim Star Trek.



Langdon đỏ mặt:



- Ừ…, tại lũ sinh viên của tôi thích… – Anh nhíu mày – Không phải phản vật chất là thứ cung cấp nhiên liệu cho U.S.S Enterprise đấy chứ?



Cô gật đầu.



- Khoa học viễn tưởng thường bắt nguồn từ khoa học chính thống.



- Vậy phản vật chất là có thật?



- Chân lí của tự nhiên. Mọi thứ đều tồn lại song song với một thứ đối lập với nó. Có hạt proton thì phải có electron. Có hạt quark trên tất phải có hạt quark dưới. Có sự đối xứng trong vũ trụ ở mức độ tiểu nguyên tử. Phản vật chất là âm so với vật chất là dương. Nó cân bằng phương trình vật lí.



Langdon nghĩ đến quan điểm đối ngẫu của Galileo.



- Từ năm 1918, các nhà khoa học biết rằng, – Vittoria nói, – hai loại vật chất được tạo ra trong vụ nổ Big Bang. Loại vật chất thứ nhất ta thấy hiện diện trên trái đất, tạo thành núi đá, cây cối, con người. Loại vật chất kia ngược lại với loại thứ nhất – giống nhau mọi khía cạnh trừ điện tích trái dấu.



Kohler nói như thể vừa tỉnh cơn mộng. Giọng nói của ông ta đột nhiên mất hẳn tự tin:



- Nhưng có những rào cản kỹ thuật thực sự lớn đối với khâu lưu giữ phản vật chất. Thế còn chất trung lập thì sao?



- Cha tôi đã xây dựng một ống chân không phân cực đảo chiều để kéo các pozitron của phản vật chất ra khỏi máy gia tốc trước khi chúng bị phân huỷ.



Kohler giận dữ.



- Nhưng một ống chân không cũng sẽ kéo các vật chất ra ngoài. Sẽ không thể tách các hạt ra được.



- Cha tôi sử dụng từ trường. Vật chất tạo thành cung lửa điện ở bên phải, còn phản vật chất tạo ra cung lửa điện ở bên trái. Chúng ở hai cực đối nhau.



Đến lúc này, những nghi ngờ của Kohler dường như đã bị đập tan. Ông ta ngước nhìn Vittoria với vẻ ngạc nhiên tột độ, rồi đột nhiên ho rũ rượi:



- Thật… không…tin nổi… – Ông ta nói, tay quệt ngang miệng, – Nếu… – Dường như lối lập luận lôgíc vẫn chưa hoàn toàn bị chinh phục – Nhưng dù cho ống chân không có làm được điều đó đi nữa thì vẫn phải dùng đến vật chất để tạo ra những chiếc hộp này. Phản vật chất không thể được lưu trữ trong những chiếc hộp bằng vật chất. Phản vật chất sẽ ngay lập tức phản ứng với…



- Mẫu vật này không chạm vào thành hộp. – Vittoria nói, rõ ràng đã đoán trước câu hỏi. – Phản vật chất bị treo lơ lửng. Hai cha con tôi gọi những cái hộp này là “bẫy phản vật chất”, bởi chúng giữ cho phản vật chất lơ lửng ở giữa, ở một cự ly an toàn so với các thành hộp và đáy hộp.



- Treo lơ lửng? Nhưng… làm thế nào?



- Giữa hai từ trường đan xen vào nhau. Đây, ông nhìn đi.



Vittoria bước qua căn phòng và lấy một bộ dụng cụ điện tử lớn. Chiếc máy kỳ lạ đó khiến Langdon nhớ đến một loại súng bắn tia chùm nào đó trong các phim hoạt hình – một nòng súng kiểu canon có ống ngắm trên đầu và một mớ dây điện loằng ngoằng phía dưới. Vittoria hướng ống ngắm vào một trong những chiếc hộp, ghé mắt vào ống kính và kiểm tra vài nút vặn. Rồi cô lùi lại đưa cho Kohler xem.



Kohler bối rối.



- Cô thu thập được cả lượng hữu hình?



- 5000 nanogram, – Vittoria nói – Một lượng plasma lỏng chứa hàng triệu pozitron(1).



Hàng triệu? Nhưng người ta chỉ phát hiện tất cả có vài hạt ở… khắp nơi.



- Chất xenon. – Vittoria bình thản nói – Cha tôi đã tăng tốc các tia hạt xuyên qua một tia xenon, tách bỏ các hạt electron. Cha tôi muốn giữ bí mật quy trình này, nhưng nó liên quan đến việc đồng thời bơm thêm các hạt electron thô vào máy gia tốc.



Langdon chẳng hiểu gì, anh tự hỏi không biết có đúng là hai người này vẫn đang nói chuyện bằng tiếng Anh hay không.



Kohler dừng lại, nhíu mày, rồi đột nhiên thở hắt ra. Ông ta bất thần sụp xuống như thể vừa bị trúng đạn.



- Xét về kỹ thuật, điều này sẽ để lại…



Vittoria gật đầu.



- Đúng thế. Rất nhiều là đằng khác.



Kohler quay lại nhìn chiếc hộp trước mặt với vẻ hoài nghi. Ông nhấc người khỏi xe lăn, đưa ống nhòm lên gần mắt rồi ghé nhìn vào bên trong. Kohler im lặng chăm chú quan sát hồi lâu. Cuối cùng ông ta cũng ngồi xuống, mồ hôi vã ra, những nếp nhăn trên trán giãn hết ra, ông giám đốc gần như thì thào:



- Chúa ơi cô thực sự đã làm được điều đó?



Vittoria gật đầu:



- Cha tôi đã làm được điều đó.



- Tôi… tôi không biết phải nói gì.



Vittoria quay sang Langdon:



- Ông có muốn xem không? – Cô chỉ tay về phía thiết bị quan sát.



Không biết chắc điều gì đang chờ mình, nhưng Langdon vẫn bước về phía trước. Cách anh khoảng nửa mét, chiếc hộp dường như trống rỗng. Dù có bất cứ thứ gì ở bên trong thì chắc chắn cũng phải có kích thước vô cùng nhỏ bé. Langdon ghé mắt nhìn vào ống nhòm. Phải mất một lúc anh mới xác định được hình ảnh trước mắt mình.



Và anh đã nhận ra.



Vật thể đó không nằm dưới đáy hộp như anh tưởng, nó trôi bống bềnh ở giữa – một giọt trông giống hệt như thuỷ ngân đang lấp lánh. Như thể có phép màu, chất lỏng đó bay lượn, nhào lộn trong không trung. Những giọt sóng kim loại gợn lăn tăn trên bề mặt của nó. Thứ chất lỏng treo lơ lửng này làm Langdon nhớ đến một bộ phim anh đã từng xem về một giọt nước trong zero. Mặc dù biết giọt chất đó cực nhỏ, anh vẫn có thể nhìn thấy từng khe nhỏ đang chuyển động và dập dờn như quả cầu plasma chầm chậm cuộn mình trong không trung.



- Nó đang… bập bềnh, – anh nói.



- Tốt nhất là nên như vậy, – Vittoria đáp. – Phản vật chất cực kỳ không ổn định. Xét về mặt năng lượng, phản vật chất là hình ảnh phản chiếu của vật chất, vì vậy chúng sẽ ngay lập tức huỷ diệt lẫn nhau nếu tiếp xúc với nhau. Tất nhiên, giữ cho phản vật chất tách biệt khỏi vật chất là một thách thức lớn, vì mọi thứ trên trái đất này đều làm bằng vật chất. Những mẫu này phải được cất giữ ở những nơi nó không bao giờ được chạm vào bất cứ cái gì – kể cả không khí.



Langdon kinh ngạc. Trong môi trường chân không ư?



Những cái bẫy phản vật chất này…, – Kohler đột ngột ngắt lời, mặt đầy vẻ ngạc nhiên khi ông ta lướt ngón tay xanh xao của mình quanh đế hộp – đều do cha cô thiết kế à?



- Sự thật thì chúng do tôi thiết kế, cô gái đáp.



Kohler ngước nhìn lên.



Giọng nói của Vittoria vẻ đầy khiêm tốn:



- Cha tôi tạo ra những hạt phản vật chất đầu tiên nhưng lại lúng túng không biết nên lưu giữ chúng thế nào. Tôi đã nảy ra ý tưởng về những cái hộp này. Những vỏ hộp bằng công nghệ nano tổng hợp kín khí với các nam châm điện ngược chiều ở hai đầu.



- Có lẽ tài năng của cô vượt trội hơn ông ấy rồi đấy.



- Không hẳn đâu. Tôi lấy ý tưởng này từ thiên nhiên. Những con sứa Bồ Đào Nha thường bẫy cá giữa các xúc tu của chúng, dùng tế bào điện châm. Tôi cũng dùng nguyên tắc tương tự. Mỗi hộp có hai nam châm điện, mỗi đầu một cái. Từ trường ngược chiều nhau đan xen ở giữa và giữ các phàn vật chất lơ lửng giữa chân không.



Langdon nhìn lại chiếc hộp. Phản vật chất đang trôi bồng bềnh trong chân không, không chạm vào bất cứ thứ gì. Kohler nói đúng. Quả là thiên tài.



- Thế còn nguồn năng lượng cho những nam châm thì lấy ở đâu? – Kohler thắc mắc.



Vittoria chỉ tay:



- Trong cột, dưới cái bẫy. Những cái hộp này được bắt vít vào một chân đế liên tục nạp điện, cho nên nguồn năng lượng cho những thỏi nam châm này không bao giờ cạn.



- Còn nếu như năng lượng cạn kiệt thì sao?



Hiển nhiên là phản vật chất sẽ thoát khỏi tình trạng bị treo lơ lửng, rơi xuống đáy hộp, và chúng ta sẽ thấy sự huỷ diệt.



Langdon căng tai nghe ngóng:



- Sự huỷ diệt? – Anh không thích nghe từ đó chút nào.



Vittoria dường như không để ý.



- Vâng. Nếu phản vật chất tiếp xúc với vật chất, cả hai sẽ bị phá huỷ ngay tức khắc. Các nhà vật lí gọi đây là quá trình “huỷ diệt”.



Langdon gật gù:



- À, ra thế.



- Đó là phản ứng đơn giản nhất trong tự nhiên. Một hạt vật chất và một hạt phản vật chất kết hợp lại với nhau tạo ra hai hạt mới – gọi là photon. Một photon chỉ là một luồng ánh sáng nhỏ li ti.



Langdon đã từng đọc về photon – các hạt ánh sáng – dạng thuần khiết nhất của năng lượng. Anh cố kiềm chế không hỏi chi tiết thuyền trưởng Kirk sử dụng ngư lôi photon trong việc chống lại quân Klingons(2).



- Vậy nếu phản vật chất rơi xuống, chúng ta sẽ nhìn thấy một luồng sáng nhỏ?



Vittoria nhún vai:



- Còn phải xem anh định nghĩa thế nào là nhỏ. Lại đây, tôi sẽ cho anh xem. – Cô với lấy một cái hộp và bắt đầu mở vít, tháo hộp khỏi bục sạc điện.



Bất ngờ, Kohler hét lên kinh hoàng và nhào tới, dập vào lay cô gái:



- Vittoria! Cô điên rồi!



Chú thích:



(1) Pozitron: Phản rất nhỏ của vật chất có điện tích dương và có cùng khối lượng với electron.



(2) Thuyền trưởng Kirk và quân Klingons là những nhân vật nổi tiếng trong bộ phim truyện giả tưởng Star Trek.