Tiền Chuộc Trái Tim
Chương 2 :
Ngày đăng: 17:47 19/04/20
Có thể Hugo Fitzstephen đã ở Đất Thánh cả mười năm qua để chiến đấu vì quyền sở hữu Jerusalem, nhưng điều đó không có nghĩa chàng là người sùng đạo. Còn khuya ấy. Vì mấy chuyện hoa tình không thể gọi là vẻ vang, Hugo, con trai thứ hai của một vị bá tước, buộc phải tham gia cuộc Thập tự chinh. Một lựa chọn khác là ra nhập tu viện, và chàng khăng khăng từ chối mặc dù ước mơ lớn nhất của thân mẫu chàng là thấy chàng tìm được sự hòa hợp với Đức Chúa trời. Hugo thích tìm kiếm sự hòa hợp với phụ nữ hơn và chàng phát hiện ra có rất nhiều phụ nữ ở Jerusalem[6]. Và chỉ điều đó thôi đã đủ để khích lệ chàng ở lại Acre[7] gần một thập kỷ chàng rời xa nước Anh.
Tất nhiên việc bị quân Thổ bắt ở Acre không có trong kế hoạch của chàng, và tới khi chàng đã được trả tiền chuộc ra thì Hugo đã thực sự chán ghét Đất Thánh nói riêng và cuộc Thập tự chinh[8] nói chung. Vào lúc đó, chàng nhận được tin về cái chết của người anh trai, và ngay sau đó là cái chết bất bình thường của cha chàng, khiến cho Hugo trờ thành Bá tước thứ bảy của Stephensgate. Vậy là chàng quyết định đã tới lúc về nhà để tận hưởng tước vị mới của mình.
Nhưng chưa kịp nhìn thấy những đồng cỏ xanh của Shropshire thì chàng đã sa vào rắc rối. Lần này không phải là tụi Saracen đuổi theo chàng, mà là gã chồng của một cô nàng tóc vàng xinh đẹp mà chàng gặp gỡ ở Luân Đôn. Nhưng tay chồng đó lại không coi đó là “gặp gỡ” và bắt chàng phải đền bù cả một gia tài cho sự “nhục nhã” hắn phải chịu. Hugo ngờ rằng hai vợ chồng này phối hợp với nhau, mụ vợ thì lôi kéo các hiệp sĩ giàu có, còn tay chồng “phát hiện” ra họ ở bên nhau và đòi đền bù cho cảm xúc của hắn bị tổn thương. Không đời nào Hugo để cho gã khốn đó được thỏa mãn.
Vậy là trên con đường về Stephensgate, Hugo và gã hộ vệ của chàng buộc phải tránh xa con đường lớn vì e ngại bị gã chủ quán trọ và đám bạn của hắn mai phục. Chẳng phải là Hugo sợ cảnh đánh chém, nhưng trong mười năm vừa qua, chàng đã chiến đấu đủ cho cả một đời rồi. Và giờ thì chàng chỉ muốn được trở về nhà để an hưởng tuổi già. Chàng gọi độ tuổi hai mươi lăm của mình như vậy đấy.
Tránh xa các nhà trọ và làng mạc, nơi gã chồng phản trắc đó có thể xuất hiện, Hugo và gã hộ vệ của chàng buộc phải ngủ ngoài trời. May thay, ngoại trừ mấy cơn dông bất chợt, còn lại thì thời tiết mùa xuân đẹp tuyệt vời. Hơn thể, chàng thà ngủ ngoài trời trong tấm áo choàng còn hơn trong những quán trọ nghèo nàn, tối tăm, đầy chấy rận của vùng nông thôn.
Thế nhưng Peter, gã hộ vệ mới của chàng, vốn đã quen với sự tiện nghi của Luân Đôn thì lại than phiền đầy cay đắng về sự đối xử tệ bạc này, và rằng việc ngủ ngoài trời quả là một sự lăng mạ đối với hắn.
Vốn đã quen với những con phố đông đúc và mù sương của Luân Đôn, gã thấy sợ vùng nông thôn tối tăm của nước Anh, sợ rằng lũ sói hay tệ hơn là bọn cướp đường có thể tấn công họ bất cứ lúc nào.
Phát chán với những lời than phiền không ngớt của Peter, khi còn cách Stephensgate khoảng chừng 2 ngày đi đường, Hugo quyết định mạo hiểm dừng lại tại ngôi làng nhỏ Leesbury để mua lương thực. Chủ yếu là chàng lo cho con ngựa chiến của mình. Skinner đã cùng chàng trải qua bao thăng trầm và xứng đáng được đối xử tốt hơn là ngày ngày ăn cỏ. Nhưng Hugo cũng phải thừa nhận rằng chàng cũng thấy nhớ nhung món bánh mỳ và pho mát cho ra hồn đi kèm với đồ uống tuyệt vời mà chàng chẳng mấy khi được nếm hồi ở Jerusalem: bia. Và chẳng có cách nào khác để tới với bánh mỳ và bia ngoại trừ việc mạo hiểm vào thị trấn.
Peter tiến vào thị trấn với niềm hân hoan được trở lại với “nền văn minh” theo cách gọi của gã, mặc dù Hugo rất ngờ rằng Leesbury sẽ gây ấn tượng mạnh với gã. Sau khi bảo gã hộ vệ của mình không được gọi Hugo là “ngài” ở nơi công cộng, chàng cùng với kẻ tùy tòng đặc biệt nhỏ con của mình tiến qua cổng làng tới ngôi nhà đầu tiên trông có vẻ tử tể.
Sau khi hào phóng cho thằng nhỏ coi ngựa một đồng tiền vàng, Hugo gật đầu với Peter và cả hai tiến vào quán Cáo và Thỏ rừng. Với chiều cao một thước chín của mình, Hugo là người đặc biệt cao lớn, và chàng không chỉ phải cúi đầu khi đi qua ngưỡng cửa mà còn phải xoay nghiêng bờ vai rộng để lách người qua ô cửa hẹp. Ấy thể nhưng sự hiện diện của chàng chẳng gây mấy xôn xao trong nhóm khách hàng mụ mị ở bên trong, một số kẻ trông như thể đã lâu lắm chẳng biết nhà cửa là gì.
Nhưng ông chủ của quán rượu thì lại là chuyện khác. Màu da sẫm và bộ râu rậm rạp tố cáo chuyện chàng đã từng ở Đất Thánh, và ông của Cáo và Thỏ rừng biết rõ rằng chẳng ai từ Đất Thánh trở về với cái túi rỗng cả. Không phải là các thánh tích này nọ... không, những con người nhạy cảm này chả quan tâm gì tới các biểu tượng tôn giáo. Chính là mùi vị của kim cương, hồng ngọc, ngọc lục bảo, ngọc bích, ngọc trai, vàng bạc, ngọc lam, những kho báu của Byzantin[9] mà người ta có thể đánh hơi thấy ngay từ người mời từ cuộc Thập tự chinh trở về đã kéo ông chủ quán tới chỗ Hugo ngay lập tức.
“Xin kính chào quý khách. Mời ngài ngồi đây và thường thức một vại bia loại thượng hạng của cô em nhà tôi nhé?”
“Rất hân hạnh,” Hugo đáp lời và ra hiệu cho Peter ngồi xuống đối diện với chàng.
Peter sung sướng thả mình xuống chiếc ghế gỗ, cảm thấy đây mới đúng là cách cư xử dành cho hộ vệ của một bá tước giàu có và quyền lực. Vừa ăn những món ăn bốc khói bày đầy trên bàn, gã vừa liếc nhìn đám thực khách xung quanh, giống như ông chủ của gã đã làm ngay khi họ mới tiến vào, nhưng chẳng phát hiện ra điều gì đáng ngờ. Tợp một ngụm bia thật to, Peter lại ngả người vào lưng ghế tận hưởng hết mức sự sung sướng này.
Tuy nhiên Hugo thì không được thoải mái như vậy. Đã quá quen với trận mạc, chàng biết rằng kẻ thù có thể làm cho ta mất cảnh giác để rồi bất ngờ tấn công. Nhấp một ngụm bia mà tay chủ quán đưa đến, chàng phải thừa nhận rằng đã lâu lắm rồi mới được uống thứ bia ngon như thế này, ấy thế nhưng mắt chàng vẫn không rời khuôn mặt của những kẻ ngồi xung quanh cũng như ô cửa đang bỏ ngỏ.
Sự phản ứng duy nhất của Hugo là tiếng gầm gừ.
“Ngài bị làm sao vậy?” Peter hỏi rất thiếu khôn ngoan. Gã chẳng thể hiểu tại sao ông chủ của mình không muốn đi tìm người đã cứu giúp họ. “Có phải ngài nghĩ cô ta là một mụ phù thủy cần phải tránh càng xa càng tốt?”
Hugo tức giận nhìn gã hộ vệ xấc láo. “Không,” chàng sải bước dài về nơi giữ ngựa. “Nhưng cô ta quá quan tâm tới chúng ta, một kỵ sĩ vừa từ cuộc Thập tự chinh trở về và hộ vệ của anh ta”.
“Vâng,” Peter hùa theo ngay. “Tôi thích điều đó lắm”. “Ta thấy rồi.” Giọng của Hugo có âm sắc mỉa mai. “Nhưng những kẻ như chúng ta thì có gì khiến cho một cô gái tỉnh lẻ quan tâm cơ chứ?’
Peter muốn trả lời rằng gã có sức hút với bất cứ cô nàng nào nhưng lại không muốn bị cho là kẻ khoe khoang. Trong thâm tâm gã chắc chắn rằng mình, chứ không phải là ông chủ, là người được cô nàng tóc đỏ để mắt tới. Làm gì có cô gái nào quan tâm tới một gã râu ria xồm xoàm già gấp đôi tuổi cô nàng và ăn mặc lùi xùi như vậy? Trong khi Peter đeo dây chuyền vàng sáng loáng ở cổ, và mặc một chiếc áo dài bằng nhung đắt tiền rõ ràng cho thấy địa vị gia nhân hoàng tộc của chàng ta. Còn chuyện cả hai thứ đó đều do ông chủ mới mua cho gã thì có làm sao?
Cô gái chẳng cần phải biết điều đó.
Nhưng giờ thì ông chủ của gã lại nói tiếp bằng cái giọng trầm oai vệ mà Peter vừa ghen tị vừa kính sợ. “Ta không muốn gây chú ý thêm nữa. Và chúng ta cũng đừng nên tìm cô ta làm gì. Bởi vì sự chú ý của ông bố hay sư huynh của các nàng trinh nữ là phiền phức nhất...”
Dù nói vậy nhưng suy nghĩ của Hugo không thể rời khỏi cô nàng tóc đỏ. Làm sao một cô gái có thể sử dụng cung tên như vậy? Và tại sao cô ta lại cứu chàng? Rõ ràng phụ nữ đã thay đổi nhiều kể từ lần cuối chàng còn ở nước Anh.
Cố gắng hết mức để thôi nghĩ về cái eo thon thả của Finnula Crais, Hugo buộc trí óc của mình tập trung vào chuyến trở về thái ấp Stephensgate. Thế nhưng đôi mắt màu xám đó vẫn cứ ám ảnh chàng, kể cả khi chàng đã lên ngựa và thúc nó đi tiếp. Nếu như ngoái nhìn lại phía sau, chàng sẽ thấy cặp mắt đó đang dán chặt vào lưng chàng trong khi Finnula đang nhẩm tính nhanh chóng các kế hoạch của riêng mình.
Chú thích:
[6] Là thành phố cổ nằm trên lưu vực sông giữa Địa Trung Hải và Biển Chết, Jerusalem có ý nghĩa đặc biệt với ba tôn giáo là đạo Do Thái, đạo Cơ-đốc và đạo Hồi. Bởi vậy trong lịch sử đã xảy ra những cuộc giao tranh khốc liệt giữa các tôn giáo này nhằm chiếm quyền kiểm soát Jerusalem.
[7] Là một thành phố nhỏ ở phía Tây Galilee thuộc miền Bắc Israel, nằm ven Địa Trung Hải.
[8] Thập tự chinh là một loạt các xung đột quân sự mang màu sắc tôn giáo do những người theo Kitô giáo tiến hành từ 1095 đến 1291, thường được ủng hộ bởi Giáo hoàng với mục đích giải phóng Jerusalem và vùng Đất Thánh khỏi sự thống trị của người Hồi giáo.
[9] Là một đế quốc tồn tại từ năm 330 đến năm 1453, đóng đô ở Constantinopolis và là một cường quốc đóng vai trò quan trọng ở châu Âu lúc bấy giờ.