Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai
Chương 34 :
Ngày đăng: 01:17 19/04/20
Tổng giám mục De Bricassart đi xuống ngả cầu thang riêng của giáo đường Thánh Pierre, ngả mà trước đó ông đã đi vào. Đột ngột nghe có tiếng ai đó thở hổn hển, ông chiếu thẳng chiếc đèn pin về hướng đó. ánh sáng làm lộ ra tác phẩm điêu khắc đẹp nhất: tượng Đức bà đau khổ của Michel Ange. Nhưng ở dưới gương mặt bất động ấy có một gương mặt khác, không phải bằng đá hoa nhưng bằng xương bằng thịt, nổi bật giữa bóng đêm như một chiếc đầu lâu.
Tổng giám mục mỉm cười gọi khẽ bằng tiếng Đức, không có tiếng trả lời nhưng ông nhìn kỹ thấy bộ quân phục binh nhì linh bộ binh Đức.
- Wie geht s - Ônng hỏi vẫn với nụ cười.
Người lạ mặt hơi giật mình, bước ra khỏi bóng tối. Trên vầng trán thông minh có những giọt mồ hôi.
- Du bist brank? Tổng giám mục lại hỏi anh thanh niên có phải bị bệnh không?
Có tiếng trả lời:
- Nein (không).
Tổng giám mục De Bricassart đặt cây đèn pin xuống đất và tiến đến gần, ông đưa tay nâng nhẹ cằm của người lính lên để nhìn rõ đôi mắt u buồn của anh ta.
- Có chuyện gì? ông hỏi bằng tiếng Đức.
- Con đến để cầu nguyện, anh thanh niên giải thích bằng một giọng nói vùng Bavarian hơi nặng.
- Thế thì chuyện gì đã xảy ra? Có phải anh bị kẹt trong này khi Nhà thờ đóng cửa?
- Vâng, nhưng không phải điều đó làm con lo.
Tổng giám mục cúi xuống cầm đèn lên.
- Dù sao anh cũng không thể ở ngoài này suốt đêm và tôi cũng có chìa khóa cổng. Tình cờ tôi đến đây cũng để cầu nguyện. Bộ chỉ huy tối cao của anh đã dành cho tôi một ngày thật gay go. Đi ngõ này, đúng. Hy vọng rằng những người canh gác sẽ không hiểu lầm rằng tôi đã bị bắt giữ và họ sẽ nhận ra chính tôi hộ tống anh chứ không phải anh hộ tống tôi.
Cuối cùng, Tổng giám mục đưa người thanh niên vào một phòng tiếp khách nhỏ bày diện rất giản dị. Ông chỉ bật sáng một bóng đèn nhỏ và đóng cửa lại.
Hai người nhìn nhau. Anh lính Đức nhìn thấy một người đàn ông cao lớn, gương mặt thanh tú, mắt xanh và sắc. Tổng giám mục nhìn thấy một cậu bé lỏng thỏng trong bộ quân phục mà cả châu Âu đã bắt đầu khiếp sợ. Đúng là một cậu bé, chắc chắn không quá mười sáu tuổi. Chiều cao trung bình, dáng người mảnh khảnh, hai cánh tay rất dài.
- Anh ngồi xuống đi, ông vừa nói vừa đi đến chiếc tủ nhỏ lấy ra chai rượu vang trắng Marsala.
Tổng giám mục rót rượu vào hai ly, trao cho anh thanh niên một, rồi ông ngả lưng vào chiếc ghế bành trong tư thế có thể quan sát thoải mái nét mặt có sức thu hút của người khách.
- Nước Đức chẳng lẽ bắt buộc phải động viên cả những trẻ con? ông vừa nói vừa ghác chéo hai chân.
- Con không biết, cậu trai trả lời. Con đang ở trong cô nhi viện và con muốn ra khỏi nơi đó bằng mọi cách.
- Con tên gì?
- Rainer Moerling Hartheim, anh thanh niên trả lời không giấu vẻ tự hào.
- Thật là một cái tên đẹp tuyệt, vị tu sĩ nhận xét nghiêm trang.
- Thưa, đẹp thật sự phải không? Chính con đã chọn cái tên ấy. Ở cô nhi viện người ta gọi con là Rainer Schmidt nhưng khi con bị động viên, con đã đổi tên ấy bằng một cái tên mà con vẫn ao ước.
- Cha mẹ con đều mất?
- Các dì phước gọi con là đứa con của tình yêu.
Tổng giám mục cố nín cười. Cậu trai tỏ ra có phẩm cách và tự tin sau khi sự sợ hãi không còn thấy trên gương mặt. Thế thì lúc nãy, cậu ta sợ hãi điều gì?
- Tại sao lúc nãy con tỏ ra quá sợ hãi, Rainer?
Anh lính trẻ hớp một ngụm rượu, rồi ngước mặt nhìn lên với vẻ hài lòng.
- Ngon tuyệt. Rượu rất dịu. Con muốn được nhìn tận mắt Giáo đường Thánh Pierre vì rằng các dì phước đã nhắc đến luôn và cho xem nhiều ảnh. Vì vậy khi con được đưa sang La Mã con rất vui mừng. Chúng con vừa đến buổi sáng, liền sau đó con tìm cách đến đây. Nhưng con đã thất vọng. Con tưởng sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa hơn trong chính Nhà thờ của Chúa; trái lại ở đây quá to lớn và lạnh lẽo. Con không cảm nhận được sự hiện diện của Chúa.
Tổng giám mục cười.
- Ta hiểu con muốn nói gì - Nhưng Giáo đường Thánh Pierre không phải là một Nhà thờ đúng nghĩa của nó. Giáo đường Thánh Pierre là Giáo hội. Chính ta cũng phải trải qua một thời gian khá lâu để tập cho mình quen với suy nghĩ đó.
- Con muốn cầu nguyện hai điều.
- Về những điều làm con sợ hãi?
- Dạ. Con nghĩ rằng chỉ riêng việc con được ở trong Giáo đường này cũng đã có thể giúp con.
- Nhưng điều gì làm cho con sợ hãi, Rainer?
- Người ta đã phát hiện con là người Do Thái và đơn vị của con rồi sẽ bị gởi sang mặt trận Nga.
- Ta hiểu và không ngạc nhiên về sự sợ hãi của con. Có cái gì cụ thể để người ta tố cáo con là người Do Thái?
- Đức cha cứ nhìn con! Cậu con trai trả lời đơn giản. Vào lúc con đăng ký vào quân đội, khi làm lý lịch của con, họ có nói cần phải kiểm tra lại. Con không đoán được họ có khả năng làm việc đó hay không, nhưng con đặt giả thiết các dì phước biết rất nhiều so với những điều các dì nói với con.
- Con hãy nói cho ta biết về con, Rainer.
Trên gương mặt trẻ trung ấy hiện lên một nét tự hào lạ lùng.
- Con là người Đức và công giáo. Con mong muốn nước Đức trở thành một nước mà các vấn đề chủng tộc và tôn giáo không đưa đến những sự ngược đãi và đàn áp Con sẽ hiến cuộc đời con cho mục đích ấy... nếu con còn sống.
- Ta sẽ cầu nguyện cho con... để cho con vẫn sống và đạt mục đích đời con.
Hai người nói chuyện với nhau đến khi bình minh nhuộm hồng những vòm gác chuông nhà thờ và những tiếng xào xạc của cánh chim bồ câu nghe vọng lại từ bên ngoài cửa sổ.
... Ngày 5 tháng 9 năm 1943, sư đoàn 9 của Úc đổ bộ lên đảo New Guinea. Mười lăm ngày sau, nơi sư đoàn này đến đóng - phía đông đảo thuộc vùng Lae - không còn một tên lính Nhật. Jims và Patsy dạo chơi trên một đồng cỏ cao gợi cho hai anh em nhớ Drogeda.
- Chúng mình sắp sửa được về nhà, Patsy. Bọn Nhật đã rút chạy. Trở về nhà Patsy ạ. Trở về Drogheda, anh sốt ruột quá. Jims xúc động nói.
- Đúng vậy, Patsy đáp lại.
Cười vui, Patsy chạy rượt đuổi theo một con vẹt, tay cầm nón đưa ra phía trước như thể anh tin chắc rằng mình sẽ túm được nó. Jims nhìn theo em mỉm cười.
Patsy chạy được khoảng hai mươi mét thì một loạt đạn đại liên nổ dòn, làm tung lên đám cỏ xung quanh. Jims nhìn thấy em mình hai tay đưa lên, thân người quay tròn. Từ ngang bụng xuống đầu gối đầy máu; sự sống như đang buông khỏi Patsy.
- Patsy! Patsy! Jims hét lên.
Anh cảm thấy như chính da thịt mình đón nhận những viên đạn ấy; anh tưởng như mình đang hấp hối và sắp chết. Anh vạch cỏ định lao tới tìm em mình nhưng sự thận trọng của người lính kịp ngăn anh lại. Jims lao đầu xuống cỏ đúng khoảnh khắc một tràng đạn thứ hai nổ dòn.
- Patsy! Patsy! Có sao không? Jims hỏi to một cách ngớ ngẩn vì rằng chính mắt anh đã thấy người Patsy đầy máu.
Thế mà, ngoài sự chờ đợi của Jims, vọng lại một tiếng trả lời khẽ.
- Không sao.
Từng phân một, Jims trườn trên cỏ, hướng tới phía trước, mùi cỏ thơm ngát, tai lắng nghe mọi động tĩnh, tiếng gió và tiếng xào xạc mỗi khi anh chuyển mình. Khi Jims tới chỗ của em mình, anh ngả đầu lên vai trần của Patsy và khóc.
- Ồ, anh đừng khóc, Patsy nói. Em có chết đâu!
Patsy kéo cái quần ngắn ướt đẫm máu xuống để lộ da thịt bị nát, đỏ tươi và run rẩy.
Bấy giờ đã có nhiều người xuất hiện và vây quanh, kể cả những đấu thủ đánh cầu còn mang găng tay và miếng lót bảo vệ ống quyển. Một người chạy đi tìm băng ca và số người còn lại tiến lên để dập tắt họng súng máy đặt bên kia bìa rừng. Cuộc săn tìm để diệt trừ ổ súng diễn ra đầy phẫn nộ vì mọi người đều yêu thương Patsy.
- Patsy may mắn vô cùng, viên sĩ nói với Jims. Cậu ta hứng ít nhất cũng một chục viên đạn nhưng phần nhiều trúng đùi. Theo xét đoán của tôi, ruột còn nguyên vẹn, bọng ********* cũng thế... Chỉ có...
- Sao? Jims sốt ruột hỏi, người run lên, môi tím lại vì mím chặt.
- Bây giờ thì hơi quá sớm để kết luận. Tôi không phải là một nhà giải phẫu tài năng như một vài tay sừng sỏ ở Moresby. Những bậc ấy có thể nói rõ hơn với bạn, nhưng ống ********* đã bị tổn thương cùng rất nhiều dây thần kinh li ti ở vùng xương chậu. Tôi tin chắc rằng có thể lành lặn tất cả nhưng có một số dây thần kinh không còn sử dụng được nữa. Điều mà tôi muốn nói với anh là rất có thể Patsy không còn cảm giác ở vùng bộ phận sinh dục.
Jims cúi đầu nhìn xuống đất qua màn nước mắt.
- Cái chính là Patsy vẫn còn sống, anh nói.
Tại cảng Moresby, sự đánh giá của viên y sĩ sư đoàn 9 về tình trạng của Patsy được xác nhận đúng.
- Chẳng quan trọng gì - Patsy nằm trên băng ca nói với Jims giữa lúc cậu ta được đưa lên máy bay về Sydney - Dù sự thể có thế nào, thật ra em cũng không thích các cô gái . Anh ở lại nhớ thận trọng hơn lúc nào hết, Jims. Em rất buồn khi phải xa anh.
- Không sao đâu, anh sẽ rất cẩn thận - Jims nói cho Patsy yên tâm và siết bàn tay của em mình - Em có biết không tiếp tục chiến đấu mà không có người bạn thân chí cốt thì... Anh sẽ viết thư kể cho em nghe những gì xảy ra ở đây. Em hãy hôn mẹ, Meggie, bà Smith và cho anh gởi lời thăm bạn bè. Dù sao em vẫn được may mắn sớm trở về Drogheda.
Fiona và bà Smith đến Sydney bằng máy bay để kịp đón Patsy từ Townsville đến. Fiona chỉ ở lại Sydney vài ngày còn bà Smith phải thuê phòng ở khách sạn Rankwick gần quân y viện Hoàng tử Xứ Wales. Patsy tiếp tục chữa trị tại đây trong ba tháng. Sự nghiệp trong quân đội của anh đến đây coi như chấm dứt.
Khi Patsy được phép rời quân y viện, Meggie lái chiếc Rolls đến rước. Meggie và bà Smith dìu Patsy ngồi băng sau có sẵn chăn mền và sách báo. Bây giờ gia đình Cleary lại cầu nguyện Chúa ban cho họ một đặc ân khác: sự trở về của Jims.
Meggie đành chịu thua nhưng đồng thời nàng cảm giác như vừa trút được gánh nặng, bây giờ Meggie thấy hết sức nhẹ nhàng và dễ chịu.
- Trong khi ánh mắt của Dane có sự kiêu kỳ. Theo con, đó là điểm giống nhất. Phải chăng nó giống Ralph có quá lộ liễu và mọi người đều biết chuyện này cả rồi phải không mẹ?
- Dĩ nhiên là chưa, Fiona quả quyết. Thiên hạ không tìm hiểu xa hơn màu mắt, cái mũi và hình dáng chung chung. Chính tất cả những điều này làm người ta nhớ đến Luke. Chỉ có mẹ biết rõ vì suốt trong nhiều năm mẹ đã theo dõi con và Ralph. Mẹ biết cha Ralph chỉ cần đưa một ngón tay lên là con đã sẵn sàng lao vào vòng tay ông ấy. Thế thì khi mẹ nói với con chuyện ly dị Luke, đáng lý con không nên trả lời theo cái kiểu trái với luật lệ của Giáo hội. Chính con khao khát vi phạm điều luật của Giáo hội hơn gấp bội so với điều luật ly dị kia mà. Chuyện con đã làm không được đàng hoàng đâu Meggie ạ. Con đã gặp một người đàn ông rất bướng bỉnh. Trước hết, ông ta muốn trở thành một linh mục hoàn toàn về mọi mặt vì vậy với ông ấy, con trở nên thứ yếu. Thật là ngu ngốc! Cuối cùng thì điều đó chẳng giúp ích gì cho Ralph để rồi theo thời gian điều không thể tránh được chuyện ấy đã xảy ra.
Ngừng một lát, Fiona nói tiếp:
- Con cứ tưởng đánh lừa được mẹ khi từ chối để Ralph làm lễ hôn phối cho con với Luke? Mẹ không dễ bị lừa đâu. Con muốn Ralph là chồng con chứ không phải với tư cách người làm lễ trong đám cưới này. Chắc con vẫn nhớ trước khi lên đường đi Athens, Ralph đã ghé lại Drogheda, lúc ấy con không còn ở đây nữa, Ralph lang thang khắp trang trại như kẻ mất hồn, tức khắc mẹ đoán ngay ông ấy sẽ đi tìm con và sẽ gặp con. Con đã tính toán rất kỹ để rồi quyết định lấy Luke. Khi con nhớ nhung mỏi mòn thì Ralph không cần đến con nhưng ngay cái giây phút hay tin con thuộc về người đàn ông khác thì Ralph lại đeo bám con như con chó của người làm vườn. Tất nhiên, Ralph tự lừa dối với chính mình rằngsự gắn bó của ông ta với con là trong sáng thật sự, nhưng rõ ràng là ông ta cần con. Con cần cho cuộc đời của ông ấy hơn bất cứ người phụ nữ nào, trước đây cũng như sau này. Lạ thật - Fiona lại nói tiếp với vẻ suy nghĩ trang nghiêm - có lúc mẹ tự hỏi ông ấy có thể tìm thấy gì ở con, rồi mẹ lại cho rằng các bà mẹ đều ít nhiều bị mù khi xét đoán những gì liên quan đến con gái của mình, ít ra cũng cho đến khi các bà đã quá già và mang tâm lý ghen tị về nét thanh xuân của con gái.
Bà ngả người ra phía sau, dựa vào lưng ghế, người lắc lư nhẹ, mắt lim dim nhưng vẫn không ngừng theo dõi Meggie.
- Mẹ không biết ông ấy đã khám phá ở con điều gì nhưng ông ấy đã tìm thấy điều đó ngay phút đầu tiên gặp con và từ đó con không ngớt làm ông ấy say mê. Điều khổ tâm nhất đối với ông ấy là nhìn thấy con lớn lên một cách hồn nhiên và trọn vẹn. Nỗi khổ ấy không thể giấu diếm được ai khi Ralph đến đây, hay tin con đã có chồng và đã ra đi. Tội nghiệp Ralph! Chỉ còn có mỗi một sự chọn lựa là đi tìm con và Ralph đã toại nguyện, có đúng vậy không Meggie? Mẹ biết ngay chuyện gì xảy ra khi con trở về nhà trước ngày sinh Dane. Ngay lúc chiếm đoạt Ralph con đã cảm thấy không còn cần thiết tiếp tục ở lại với Luke nữa.
- Dạ đúng thế, Meggie thú nhận bằng một tiếng thở dài - Ralph đã tìm gặp con nhưng điều đó cũng không giải quyết được gì. Con biết Ralph sẽ không bao giờ bỏ Chúa. Chính vì lý do đó mà con quyết định chiếm lấy ở Ralph điều duy nhất mà con có thể hy vọng: một đứa con, một đứa con trai, Dane.
- Mẹ có cảm tưởng như nghe một tiếng vọng nào đó, bà vừa nói vừa cười chua chát. Hình như mẹ đã từng nói những lời giống hệt như thế.
- Về chuyện của anh Frank?
Chiếc ghế bành nghiến xuống nền gạch; Fiona đứng lên, đi tới đi lui, gót giày nện mạnh; cuối cùng bà quay trở lại đứng trước con gái và nhìn chăm chăm:
- Có phải con định trả đũa mẹ, Meggie? Con đã biết chuyện đó từ bao giờ?
- Từ khi... còn nhỏ. Từ ngày Frank bỏ nhà ra đi!
Im lặng một lúc, Fiona lại lên tiếng:
- Con che mắt thế gian rất khéo, Meggie ạ! Xưa kia ông ngoại đã mua cho mẹ một người chồng để kiếm một cái tên cho Frank rồi ném mẹ ra khỏi nhà. Số phận của con sẽ không hơn gì mẹ đâu. Con sẽ phải trả giá. Hãy tin đi, rồi đây con sẽ phải trả giá. Mẹ đã mất Frank một cách hết sức đau đớn, nỗi đau đớn nhất của một người mẹ mất con. Đến bây giờ mà mẹ vô cùng... Con sẽ thấy... Rồi con cũng vậy, sẽ mất Dane.
- Con có cách giữ Dane mẹ ạ. Mẹ mất Frank vì không thể đặt Frank vào ngồi chung một cỗ xe với ba. Phần con, nhất định Dane sẽ không có một người cha nào để kìm kẹp. Con sẽ buộc chặt Dane vào Drogheda này, ở đây Dane rất an toàn.
Mùa mưa đến rồi lại qua đi, nhưng nhờ ơn Chúa, cả vùng không phải chịu những trận hạn hán. Thiên hạ nói với nhau sau những năm khó khăn, nay Drogheda được bù lại. Thu nhập của trang trại vượt qua mọi dựđoán, mỗi năm hàng triệu bảng. Ngồi trước bàn viết, Fiona vui ra mặt. Bob vừa ghi thêm vào danh sách nhân công, tên hai thợ chăn nuôi vừa mướn.
Ở tòa nhà lớn, cuộc sống của gia đình Cleary trở nên hết sức dễ chịu.
Sống xa không khí vội vàng của những thị trấn đông dân, hai con của Meggie ít ốm đau. Năm Dane lên mười và Justine mười một, cả hai được gởi đi học nội trú ở Sydney. Dane vào trường Riverview còn Justine vào trường Kincoppal. Lần đầu đưa các con lên máy bay, Meggie ngắm rất lâu hai gương mặt nhỏ bé áp vào cửa kiếng, tay cầm khăn vẫy về hướng nàng. Chưa bao giờ hai đứa rời khỏi nhà đi xa. Meggie hết sức mong muốn được cùng đi với con đến Sydney xem chúng ăn ở ra sao, nhưng tất cả những người trong gia đình đều phản đối dữ dội. Từ mẹ nàng cho đến Jims và Patsy đều cho rằng tốt hơn là hãy để cho Dane và Justine được bay bằng chính đôi cánh của chúng nó.
Ngày tháng qua, Justine nhanh chóng quen thuộc với cuộc sống xa nhà, thích nghe với thành phố Sydney như đã biết nơi đó từ lâu. Mỗi lần về nhà nghỉ hè, Dane còn phần nào quyến luyến Drogheda nhưng còn Justine thì nao nức chờ ngày được sớm quay trở lại thủ đô.
Ngày 4 tháng 8 năm 1952, tờ Diễn đàn buổi sáng Sydney thường khi chỉ đăng một ảnh trên trang nhất. Trong số báo hôm nay, đặt trang trọng ở giữa và trên cao là ảnh chân dung rất đẹp của Ralph de Bricassart:
Đức Tổng giám mục Ralph de Bricassart, hiện là phụ tá Quốc vụ khanh đặc trách ngoại giao Tòa thánh La Mã, vừa mới được Đức Thánh Cha Pie XII phong Hồng Y De Bricassart.
Hồng Y Ralph đã xuất sắc phục vụ trong một thời gian rất lâu Nhà thờ công giáo tại Úc. Ngài đến đấy từ tháng bảy năm 1919, lúc đó vừa thụ phong linh mục cho đến tháng ba năm 1933, ngày lên đường sang Vatican.
Sinh ngày 23 tháng 9 năm 1893 tại Cộng hòa Ireland, Hồng Y De Bricassart là con trai kế của một gia đình có liên quan đến dòng họ Nam tước Ranulf de Bricassart, dòng họ thân cận của William the Conqueror đổ bộ lên nước Anh năm 1066. Vào tu viện năm mười bảy tuổi, Ngài được đưa sang Úc ngay sau khi được thụ phong linh mục và Ngài đã trải qua những tháng đầu tiên trên đất nước chúng ta dưới quyền của cố giám mục Michael Clabby, địa phận Winnemurra.
Tháng sáu năm 1920, Ngài được đổi sang giáo khu Gillanbone, Tây Bắc xứ New South Wales. Ngài tiếp tục phục vụ tại đây cho đến tháng mười hai 1928. Sau đó Ngài làm bí thư cho Đức Tổng giám mục Cluny Dark và tiếp tục nhiệm vụ đó cho Đức khâm mạng Tòa thánh bấy giờ là Tổng giám mục Di Contini Verchese. Chính lúc đó Ngài được phong giám mục, khi Đức Tổng giám mục Di Contini Verchese nhận nhiệm vụ ở La Mã và bắt đầu một sự nghiệp thành công nổi bật tại La Mã.
Ngài De Bricassart được phong Tổng giám mục và từ Athens trở về đất nước chúng ta trong nhiệm vụ đại diện Đức giáo hoàng. Ngài đảm trách sứ mạng quan trọng này cho đến ngày Ngài nhận nhiệm vụ mới ở La Mã năm 1938; từ đó tại trung tâm quyền lực của Giáo hội giáo, sự nghiệp của Ngài không ngừng đi lên một cách ngoạn mục. Hiện Ngài 58 tuổi, được coi là một trong những nhân vật hiếm hoi có ảnh hưởng lớn trong đường lối của Giáo hội.
Đặc phái viên báo “Diễn đàn buổi sáng Sydney†hôm qua đã có dịp trao đổi với nhiều giáo dân trước đây dưới quyền cai quản của Hồng Y De Bricassart tại thị xã Gillanbone. Kỷ niệm về Ngài vẫn còn sinh động và đượm nhiều tình cảm. Vùng chăn nuôi cừu giàu có này đa số theo đạo Công giáo. Linh mục De Bricassart là người xây dựng thư viện Thánh giá, thị trưởng Gillanbone, ông Harry Gough đã nói với chúng tôi. Vào thời đó, thư viện này đã có nhiều đóng góp đáng quí, ngay lúc đầu đã có sự giúp đỡ rất lớn của góa phụ Mary Carson, sau này khi bà qua đời, chính Hồng Y tiếp tục đỡ đần, Ngài luôn luôn nhớ và giúp đỡ chúng tôi.
Hồng Y De Bricassart là một con người tao nhã mà tôi được gặp, bà Fiona Cleary đã nói với chúng tôi. Bà Cleary là một phụ nữ uy tín ở Drogheda, quản lý một trong những trang trại rộng lớn và phát đạt ở Xứ New South Wales. Trong thời gian Ngài ở Gilly, Ngài đã mang lại một sự hỗ trợ tinh thần rất lớn cho giáo dân và đặc biệt cho những người ở trang trại Drogheda, nay thuộc về tài sản của Giáo hội Công giáo. Trong thời gian lũ lụt, Ngài đã giúp chúng tôi cứu các đàn gia súc; Ngài cũng tiếp tay chúng tôi trong những cơn hỏa hoạn, kể cả việc chôn cất những người thân yêu qua đời. Nói tóm lại, đó là một con người phi thường trên mọi lĩnh vực và có một sức quyến rũ rất lớn. Chúng tôi vẫn nhớ Ngài rất rõ dù rằng Ngài đã rời khỏi nơi đây trên hai mươi năm. Vâng, đúng là điều đó đã gây ra trong lòng của rất nhiều người một sự thiếu vắng không có gì có thể bù đắp được.
Trong chiến tranh, Tổng giám mục De Bricassart đã phục vụ Đức Thánh Cha một cách trung thành và kiên trì không gì lay chuyển. Ngài đã vận dụng mọi cách để thuyết phục Thống chết Albert Kesslring tuyên bố La Mã là thành phố bỏ ngỏ sau khi nước àtrở thành thù địch với nước Đức. Florence cũng từng yêu cầu một đặc ân như thế mà không được, đã phải chịu mất nhiều kho báu, và chỉ được phục hồi khi nước Đức bại trận. Những năm sau chiến tranh, Hồng Y De Bricassart đã giúp hàng chục ngàn người di cư tìm được chỗ nương thân ở những nước mới đến và đóng góp tích cực vào chương trình nhập cư của Úc. Dù rằng là người gốc Ireland và trong thực tế, với tư cách Hồng Y, có thể ảnh hưởng của Ngài sẽ không nhiều trên đất nước chúng ta, nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta, trên phương diện tình cảm, cho rằng nước Úc có quyền nhìn nhận con người tài ba ấy là một trong những đứa con của mình.
Meggie trả lại tờ báo cho mẹ với một nụ cười buồn bã:
- Chúng ta chúc mừng ông ấy, con đã nói điều này với đặc phái viên Diễn đàn. Nhưng họ không đăng phải không mẹ? - Meggie bình luận. Ngược lại họ cho đăng bài tán tụng ngắn của mẹ gần như nguyên văn. Lời lẽ của mẹ thật là sắc nét! Bây giờ con đã biết Justine giống cách ăn nói đó ở ai! Con tự hỏi có bao nhiêu người tinh khôn sẽ đọc thấy được ý thật của mẹ giữa các dòng chữ.
- Người đó trước hết là ông ấy... nếu ông ấy đọc bài báo.
- Con uống đi, bà nói như ra lệnh. Con đã mất nó như thế nào?
- Dane muốn trở thành linh mục.
Một tiếng cười gằn chen lẫn trong những tiếng khóc. Anne với lấy hai cây gậy, đi khập khiễng đến chiếc ghế bành của Meggie, vụng về ngồi lên trên tay ghế và vuốt mái tóc vàng hung óng ả của nàng.
- Ồ, Em của chị! Như thế có gì là ghê gớm đâu!
- Cô có biết chuyện của Dane không? Fiona quay qua Anne hỏi.
- Cháu biết từ lâu, Anne đáp.
Meggie dịu xuống:
- Không có gì ghê gớm lắm phải không mẹ? Đây là điểm khởi đầu của một sự kết thúc. Con đã cướp Ralph của Chúa và bây giờ con phải trả lại cho Chúa chính đứa con trai của con. Mẹ đã nói với con rằng đó là sự cướp đoạt, mẹ có nhớ không? Lúc đó con không chịu tin mẹ nhưng bây giờ mẹ có lý như đã từng có lý trước bao nhiêu điều khác.
- Nó sẽ vào tu viện Thánh Patrick? Fiona hỏi, bà luôn luôn thực tế.
Meggie cười vang, mẹ ạ. Không, con sẽ gởi Dane cho Ralph. Phân nửa con người Dane là của Ralph. Nó có thể dựa vào Ralph. Đối với con, Dane quan trọng hơn Ralph. Con biết Dane muốn đến La Mã.
- Em có thú nhận cho Ralph biết ông ấy là cha của Dane không? Lần đầu Anne đề cập đến vấn đề này.
- Không, không bao giờ em nói cho Ralph biết điều đó. Không bao giờ chị ạ.
- Hai người rất giống nhau đến mức không thể không nhận ra.
- Ai? Ralph à? ông ấy chẳng hề hay biết gì cả! Em sẽ giữ bí mật của em. Em gởi đến cho ông ấy đứa con của em. Chứ không phải đứa con của ông ấy.
- Coi chừng, đó lại là sự ghen tuông với thánh thần, Meggie - Anne nói thật nhỏ. Thánh thần chưa để em yên đâu.
- Em còn phải chịu hành phạt nào khác nữa? Meggie hỏi lại trong tiếng thở dài.
Chiếc xe hơi của Vatican đến rước Dane tại sân bay và đưa Dane đi qua các con đường ngập nắng đông đúc những người đi dạo.
Vừa ăn kem Dane vừa thích thú tò mò khám phá những bức tượng mà trước đây cậu ta chỉ nhìn thấy trong ảnh, những cột thời La Mã, những lâu đài xưa, Thánh đường Saint Peter, niềm tự hào của phục hưng.
Và tại đây, Ralph đón Dane, lần này từ đầu đến chân ông mặc toàn màu đỏ thắm. Ralph chìa bàn tay ra, chiếc nhẫn lấp lánh. Dane sụp quỳ xuống, hôn viên hồng ngọc.
- Con hãy đứng lên, để cha ngắm nhìn con một chút nào?
Dane đứng dậy, nụ cười trên môi, nhìn con người to lớn, có chiều cao như mình. Cả hai có thể nhìn nhau trong mắt. Với Dane, ở Hồng Y De Bricassart tỏa ra vầng hào quang chứa đựng một quyền lực tinh thần đặt ông vào tư thế một giáo chủ hơn là một vị thánh. Thế nhưng, đôi mắt ấy lại ngập tràn một nỗi buồn u uẩn, lại càng không phải là đôi mắt của một người giáo chủ. Ôi, ông đã trải qua biết bao đau khổ khiến cho đôi mắt còn đọng lại nỗi buồn ấy, nhưng ông đã vượt lên sự đau khổ một cách cao thượng để trở thành vị linh mục hoàn toàn giữa chúng ta.
Trong khi đó Hồng Y De Bricassart nhìn đứa con trai mà ông không biết đó là con mình. Ông yêu thương Dane vì ông nghĩ rằng đó là con của Meggie yêu dấu. Nếu ông có một đứa con trai, ông rất muốn nó giống như chàng trai đứng trước mặt ông, cũng cao lớn, có một nét đẹp thu hút và có duyên.
Nhưng ông bằng lòng hơn tất cả là những nét hấp dẫn về thể hình, ở Dane hiện rõ cái đẹp từ sự giản dị của tâm hồn. Dane có sức mạnh của những thiên thần và phần nào đó là sự cao cả của họ. Bản thân ông có được như thế ở tuổi mười tám không? Ralph cố nhớ lại và khơi dậy trong trí nhớ biết bao sự kiện của mọt cuộc đời đã về chiều... Không. Ông không hề có những gì như Dane hôm nay. Phải chăng vì con người này đã thật sự đến với Chúa do sự chọn lựa của chính mình? Còn với ông, thì không phải như thế, dù cho ông có thiên hướng. Về điều này ông nhớ rất kỹ.
- Con hãy ngồi xuống, Dane. Con có làm theo lời cha căn dặn, đã bắt đầu học tiếng chưa?
- Con đã đạt trình độ có thể nói trôi chảy nhưng chưa sử dụng thành thạo các thành ngữ. Con đọc rất dễ dàng, vì đây là sinh ngữ thứ tư của con nên việc học cũng thuận lợi. Vài tuần lễ ở àsẽ giúp con làm quen với ngôn ngữ bình dân.
Em giao cho anh trách nhiệm chăm sóc Dane - thư của Meggie viết. - Cuộc sống yên vui và hạnh phúc của nó tùy thuộc vào anh. Em đã lấy cắp cái gì, em xin trả lại cái đó. Người ta buộc em như thế. Chỉ xin anh hứa với em hai điều để em yên tâm là anh hết lòng lo cho Dane. Thứ nhất, anh hứa với em trước khi Dane có một sự chọn lựa dứt khoát, chính anh phải hiểu rõ một cách chắn chắn thiên hướng thật sự của Dane. Thứ hai, nếu thiên hướng của Dane là đúng như vậy, anh hãy trông nom làm sao cho sự lựa chọn ấy không bị chao đảo. Còn ngược lại, em muốn Dane trở về với em. Vì trước hết, nó thuộc về em. Chính em đã trao nó vào tay anh.
- Dane, con có tin chắc vào thiên hướng của con?
- Chắc chắn thưa Đức cha.
- Tại sao?
- Vì tình yêu mà con dành cho Chúa; con muốn được phục vụ Chúa, suốt đời là người chăn dắt con chiên cho Chúa.
- Con có hiểu điều gì đòi hỏi ở người làm tôi tớ của Chúa?
- Con hiểu.
- Rằng không có một tình yêu nào khác được chen vào giữa Chúa và con? Con hoàn toàn thuộc về Chúa và từ bỏ tất cả
- Thưa vâng.
- Rằng mọi việc đều hành xử theo ý muốn của Người; khi trở thành tôi tớ của Người, con phải từ bỏ nhân cách, cái nhân của con, từ bỏ ý nghĩ cho rằng bản thân con là quan trọng?
- Thưa vâng.
- Rằng con sẵn sàng đối đầu với cái chết, tù tội, cái đói nhân danh Người? Rằng con sẽ không sở hữu bất cứ cái gì, không để cho bất cứ cái gì ảnh hưởng xấu đến tình yêu của con hiến dâng cho Người?
- Thưa vâng.
- Con có nghị lực không Dane?
- Con là một người đàn ông. Con biết rằng sẽ rất khó khăn nhưng con cầu nguyện Người giúp con.
- Con có thật sự tin ở con không Dane? Không có điều gì khác có thể làm con sa ngã?
- Thưa vâng.
- Và nếu sau này, con thấy cần thay đổi ý kiến con sẽ làm thế nào?
- Con sẽ xin rời khỏi nơi đây, Dane trả lời, vẻ ngạc nhiên. Nếu con thay đổi ý kiến, duy nhất chỉ vì con sai lầm khi định ra thiên hướng của mình, chứ không do một nguyên nhân nào khác. Trong trường hợp này, con sẽ xin rời khỏi nơi đây. Con sẽ tiếp tục yêu Người nhưng con hiểu ra rằng không phải bằng cách này Người muốn con phục vụ cho Giáo hội.
- Nhưng khi con đã phát nguyện và đã được thụ phong, con phải biết rằng con không trở lui lại được nữa, con sẽ không có cách nào để giành lại sự tự do của con.
- Thưa Đức cha con hiểu, Dane kiên trì khẳng định. Nhưng nếu phải lấy một quyết định thì con sẽ làm việc đó trước khi con phát nguyện.
Hồng Y De Bricassart ngả lưng vào ghế bành, thở ra. Xưa kia ông đã từng có một quyết tâm như thế. Có bao giờ ông đã chứng tỏ một nghị lực như thế?
- Tại sao con tìm đến ta hở Dane? Tại sao con lại mong muốn đến La Mã? Tại sao không ở Úc?
- Mẹ con đã có ý nghĩ đưa con đến La Mã nơi mà chính con cũng mơ ước từ lâu. Nhưng trước kia con không tin rằng gia đình có đủ tiền gửi con đến đây.
- Mẹ con rất sáng suốt. Và mẹ con đã nói cho con biết rõ chứ?
- Biết chuyện gì thưa Đức cha?
- Biết rằng hằng năm con có một khoản tiền năm ngàn bảng và hiện trong ngân hàng con có một số tiền dành dụm lên đến vài chục ngàn.
Dane giật mình.
- Không, mẹ con chưa bao giờ nói với con điều đó.
- Đúng là mẹ con rất thận trọng. Nhưng bây giờ con đã biết con có sẵn một số tiền như thế, vậy con có muốn ở lại La Mã không?
- Thưa vâng.
Điện thoại reo, Hồng y thản nhiên nhấc ống và trả lời bằng tiếng Ax.
- Vâng cảm ơn. Chúng tôi sẽ đến ngay (Hồng Y đứng lên). Đã đến giờ uống trà, chúng ta sẽ uống trà với một trong những người bạn già thân nhất của cha. Sau Đức Thánh cha, ông ấy là người quan trọng nhất trong Giáo hội. Cha đã báo cáo với Đức ngài về sự có mặt của con và Ngài có ý muốn gặp con.
Vittorio Scarbanza tức Hồng Y Di Contini Verchese đã sáu mươi sáu tuổi, bị phong thấp nặng nhưng đầu óc vẫn bén nhạy như ngày nào. Con mèo cái của ông - Natasha - đang nằm ngủ trên đùi. Ông không thể đứng lên chào khách nhưng tươi cười và dùng đầu ra dấu mời khách đến gần. Đôi mắt ông nhìn bắt gặp vẻ gì đó rất quen thuộc. Đôi mắt ông mở to rồi nhíu lại. Ông cảm thấy tim ông như ngừng lại và đưa tay lên ngực với một cử chỉ có vẻ tự trấn an. Một lúc sau miệng há hốc và ánh mắt vẫn nhìn thẳng anh thanh niên có gương mặt giống hệt De Bricassart như một bản sao.
- Vittorio, có sao không? Hồng Y De Bricassart vừa âu lo vừa cầm lấy tay của Di Contini Verchese để xem mạch.
- Không sao. Một cơn đau nhẹ thoáng qua, thế thôi. Hai người ngồi xuống đi, xin mời.
Dane quỳ xuống, áp mạnh môi lên chiếc nhẫn.
- Con hãy ngồi. Một lát nữa hãy pha trà. Ồ, ông bạn thanh niên, con muốn trở thành linh mục phải không và con tự đặt mình dưới sự che chở của Hồng Y De Bricassart?
- Thưa Đức cha, vâng.
- Sự chọn lựa của con thật đúng. Được Hồng Y De Bricassart bảo trợ con khỏi phải e ngại điều gì không hay xảy ra. Nhưng sao cha thấy con có vẻ âu lo, phải chăng vì con chưa quen nơi này.
Dane mỉm cười, cũng lại nụ cười duyên dáng của Ralph mà chính anh không hề biết. Nụ cười ấy giống Ralph đến đỗi khiến cho trái tim già nua và mệt mỏi nhói lên như vừa bị một mũi nhọn kẽm gai đâm vào.
- Con bối rối, thưa Đức cha. Con hoàn toàn bất ngờ và xúc động vì đứng trước các Hồng Y. Con không bao giờ dám mơ ước được có người đón ở phi trường và càng không dám nghĩ được uống trà với Đức cha.
- Đúng thế, đây là chuyện bất thường. Ồ, đã có trà... Ông theo dõi vị nữ tu đang đặt tách đĩa bằng ánh mắt vui vẻ, rồi đưa ngón tay lên để ngăn Ralph lại. Ồ, không! Hãy để cho tôi đóng vai chủ nhà. Dane, con thích uống trà thế nào?
- Thưa cũng như Ralph, trả lời xong cậu đỏ mặt. Xin lỗi Đức cha, con không có ý định gọi như thế...
- Không sao Dane à, Ralph cắt ngang. Hồng Y Di Contini Verchese không bắt lỗi con đâu. Chúng ta đã gặp và quen nhau bằng cách gọi nhau Dane và Ralph. Và như thế chúng ta sẽ thân thiết nhau hơn nhiều, phải không? Nghi thức chỉ tạo sự xa lạ hoàn toàn trong các quan hệ giữa chúng ta. Tôi muốn chúng ta vẫn là Dane và Ralph trong thân tình; Đức cha không thấy gì bất tiện chứ?
- Không. Ralph là người ủng hộ việc gọi nhau bằng tên. Nhưng, trở lại chuyện đang nói dở dang lúc nãy cha nghĩ đến việc con có những người bạn có chức vị cao - chẳng hạn như mối quan hệ tình bạn lâu ngày với Ralph - sẽ gây phiền phức cho con khi con đặt chân vào tu viện nào đó mà Ralph sẽ chọn lựa cho con. Thật là bực bội nếu phải luôn luôn giải thích dài dòng mỗi khi mối quan hệ giữa hai người gây nên sự chú ý. Đôi khi, Chúa của chúng ta cho phép nói láo một cách thành khẩn. Vì lợi ích chung, ta thấy tốt hơn nên bẻ cong một chút sự thật. Do rất khó giải thích cho suông sẻ các mối quan hệ tình cảm riêng tư, tốt hơn là nên nêu ra mối liên hệ dòng họ. Như thế chúng ta có thể nói với mọi người rằng Hồng y De Bricassart là cậu của con, Dane và chúng ta dừng lại ở mối quan hệ đó. Hồng Y Di Contini Verchese kết thúc bằng một giọng ngọt ngào.
Dane hơi bị khó chịu về những điều vị Hồng Y nói, còn Ralph thì cúi đầu im lặng.
Hồng Y Di Contini Verchese dịu dàng nói tiếp:
- Con đừng thất vọng vì các tên tuổi nổi tiếng cũng có những đôi chân bằng đất sét và có khi họ cũng cần nói láo để giữ được một sự yên ổn nào đó. Con vừa học được một bài học rất bổ ích. Tuy nhiên con phải hiểu, các Hồng Y là những nhà ngoại giao rất sâu sắc. Thật ra, ta chỉ nghĩ đến con, chỉ vì con thôi, Dane ạ. Lòng ghen tị và sự thù ghét cũng phổ biến trong các tu viện chẳng khác nào các trường học ngoài đời. Con sẽ phải chịu đựng một chút vì người ta cho rằng Ralph là cậu của con, anh của mẹ con, nhưng con sẽ phải chịu đựng nhiều hơn nếu người ta nghĩ rằng giữa hai người không có một mối liên hệ bà con nào cả. Chúng ta trước hết là những con người, vì thế mà phải đối đầu với con người trong môi trường này hoặc môi trường khác.
Dane cúi đầu, rồi chồm ra phía trước định đưa tay vuốt ve con mèo cái nhưng anh kịp dừng lại.
- Con xin phép... Con rất yêu mèo, thưa Đức cha.
Thái độ của Dane khiến tấm lòng trung thực của Hồng Y Di Contini rộng mở:
- Vâng. Ta phải thú nhận rằng bây giờ nó hơi nặng ký vì ăn hơi nhiều... Phải không Natasha?Con qua Dane đi, hãy đến với thế hệ mới.
Hai tháng sau khi Dane đi La Mã, Justine cũng đi Anh. Mùa kịch ở Culloden kết thúc, Justine rời chung cư Bothwell Gardens không luyến tiếc. Meggie chỉ đến Sydney hai lần. Lần đầu để đưa Dane và lần nãy tiễn Justine. Đến giây phút cuối cùng chia tay, Meggie vẫn nhìn thấy có quá nhiều khác biệt giữa bản thân mình với con gái. Tính tình Justine ngổ ngáo. Nếu bị trách phiền, Justine trêu chọc mẹ: “ Như mẹ vẫn nói, con giống ba chớ đâu giống mẹâ€. Trên boong tàu nhìn xuống, Justine không nghĩ rằng mẹ mình đã năm mươi tuổi.
Do có tiền bạc dư dả, Justine cảm thấy Luân Đôn trở thành một nơi đặc biệt hấp dẫn. Nhất định cô không chọn một cuộc sống nghèo nàn ở khu Earl s Court - mệnh danh “Kangaroo Valley†- nơi có rất nhiều người Úc.
Justine mướn một căn hộ tiện nghi ở Kensington, gần Knightsbridge và ký hợp đồng với đoàn kịch Clyde Daltinham - Roberts.
Mùa hè đến, Justine đi tàu hỏa sang La Mã. Con tàu đi xuyên qua Pháp và ànhưng Justine không nhớ mình đã nhìn thấy những gì vì đầu óc của cô chủ yếu tập trung ôn lại những chuyện sẽ kể cho Dane nghe. Và đúng là có quá nhiều điều để nói.
Có phải Dane đó không? Chàng thanh niên cao lớn, tóc vàng đứng ở sân ga chính là Dane?
Dane không khác xưa bao nhiêu, nhưng cũng không còn là đứa em trai bé nhỏ. Cuộc sống của Dane tạo ra một khoảng cách với Justine, xa lạ cứ như là hiện giờ Justine đang ở Drogheda.
Khi về đến khách sạn, cậu em trai nói với chị:
- Chị có cảm thấy phiền hà không nếu em mời chị chiều nay uống trà với vài người bạn của em? Em hơi vội vàng lỡ nhận lời trước rồi. Họ rất muốn được biết mặt chị...
- Đồ ngu! Tại sao lại phiền hà? Nếu hai đứa mình ở Luân Đôn, chị cũng sẽ nhận chìm em qua giữa bạn bè của chị thôi. Chị rất vui được biết bạn bè của em ở tu viện ra sao, dù có thể sẽ chẳng có thú vị lắm. Chắc chắn là không mê được một chàng trai nào đâu.
Trong phòng ngủ khách sạn, đứng gần cửa sổ, nhìn qua bên ia trong cảnh lặng im và buồn, xa xa là bức tường bao quanh một nhà thờ, Justine gọi khẽ.
- Dane!
- Chuyện gì?
- Chị thông cảm em. Chị thông cảm em thật sự.
- Vâng, em biết. Em rất mong mẹ cũng hiểu em, Justine ạ.
- Với mẹ thì khác. Mẹ có cảm tưởng là chúng ta đã bỏ rơi mẹ, nhưng em đừng âu lo vì mẹ, trước sau gì mẹ cũng chấp nhận thôi.
- Em hy vọng như thế - cậu ta cười - Thật ra chiều này những người chị gặp không phải là bạn em ở tu viện. Không bao giờ em đẩy chị và các bạn em vào một thứ bẫy cám dỗ như thế. Chị sẽ gặp Hồng Y De Bricassart. Em biết chị không có cảm tình với ông ấy nhưng chị hãy hứa với em là chị sẽ tỏ ra dễ thương.
Trong mắt của Justine thoáng một ánh tinh nghịch.
- Chị hứa với em. Chị sẽ hôn lên tất cả những chiếc nhẫn mà ông ấy chìa ra.
- Cả Hồng Y Di Contini Verchese cũng có mặt.