Tiếng Gọi Nơi Hoang Dã (Phương Bắc)

Chương 1 : Vào cõi nguyên thuỷ

Ngày đăng: 14:49 19/04/20


Ôi khát vọng xưa đất trời rộng bước



Giận thói thường xích chặt tựa lao tù



Đêm đông lạnh từ giấc nồng mộng ước



Lại bừng sôi huyết thống của hoang vu!



Bấc không hề đọc báo, chứ nếu có đọc thì hẵn đã biết là sắp gay go đến nơi rồi, không chỉ gay go cho riêng nó, mà còn cho cả họ hàng nhà chó vùng duyên hải, từ vịnh Piugít Xao đến tận Xan Điêgô thứ chó có bắp thịt rắn khoẻ và bộ lông dầy ấm áp. ấy là bởi vì con người, qua quá trình dò dẫm giữa đất trời tối tăm vùng Bắc Cực, đã tìm thấy 1 thứ kim loại màu vàng và bởi vì các công ty tàu biển và vận tải kháo rầm lên về sự phát hiện đó, cho nên có hàng ngàn người đã đổ về xô vào vùng đất phương Bắc. Những con người đó cần có chó, mà thứ chó họ cần là thứ chó cỡ lớn, có bắp thịt rắn khoẻ để mà lao động nặng nhọc, và có bộ lông dày rậm rạp để mà chống đỡ với giá tuyết.



Bấc sống trong 1 khu nhà rộng lớn giữa thung lũng Kanta Clara ngập nắng. Người ta gọi đó là trang trại của ngài thẩm phán Milơ. Khu nhà ở xa đường cái, hơi khuất trong lùm cây rậm. Qua kẽ lá có thể nhìn thấy thấp thoáng hàng hiên rộng, mát rượi chạy suốt 4 bên nhà. Từ ngoài vào đến nhà những con đường xe chạy rải sỏi, lượn quanh co qua mấy bãi cỏ rộng, dưới những lớp cành xen nhau của những hàng bạch dương cao lớn. Khu đằng sau, đất đai còn rộng bát ngát hơn. Có những chuồng ngựa lớn, ở đó hơn chục người chấn giữ ngựa hò hét ầm ĩ, nhiều dãy lán trại cho đầy tớ ở có dây nhô leo kín mái, 1 dãy nhà ngang ngăn nắp dài dằng dặc, những chỗ ngồi mát dưới giàn nho dại, những bãi cả xanh rờn, vườn cây ăn quả và những khóm dâu. Rồi thì còn có cả 1 trạm bơm cho chiếc giếng phun, và 1 bể lớn xây bằng xi-măng, là nơi các cậu con trai nhà thẩm phán Mi-lơ nhào lặn mỗi buổi sáng và ngâm mình cho mát trong những buổi chiều nóng nực.



Vậy mà Bấc ta đã ngự trị cả cái dinh cơ rộng lớn này. Tại nơi đây Bấc đã sinh ra, và cũng tại nơi đây Bấc đã trải qua 4 năm tuổi đời của nó. Dĩ nhiên cũng còn có những con chó khác. Giữa 1 nơi rộng bát ngát thế này, không thể không có thêm nhiều những con chó khác được, nhưng chúng không đáng đếm xỉa tới. Chúng lăng xăng, sống chen chúc trong những chiếc cũi hay trong những xó xỉnh nào đó của khu nhà, ít ai nhận thấy, có 1 con chó là chó Tút, loại chó ỉ Nhật Bản lùn tịt, 1 con khác là Idaben, loại chó Mêhicô trụi lông - nhưng giống chó kỳ quặc hiếm khi thấy chúng ló ra khỏi cửa hay đặt chân xuống đất. Ngoài ra, còn có lũ chó săn cáo, ít ra cũng vài chục con: chúng thường sủa lên những tiếng ghê sợ doạ con Tút và Idaben mỗi khi bọn này thò đầu ra cửa sổ nhìn chúng, và 2 con được cả 1 đoàn con ở vũ trang bằng chổi và cán tải lau sàn bảo vệ.



Nhưng Bấc không phải là hạng chó chui rúc trong nhà, cũng không phải là hạng chó nhốt trong cũi. Toàn bộ vương quốc này là của Bấc. Nó cũng ngụp lặn trong bể bơi hoặc cùng đi săn với các cậu con trai của ông Thẩm. Nó hộ tống Mo-li và Ê-lêx, các cô con gái của ông Thẩm, trong những buổi dạo chơi dông dài của 2 cô vào buổi hoàng hôn hoặc sáng tinh mơ. Những đêm giá lạnh, nó nằm dài dưới chân ông chủ trước ngọn lửa lò sưởi rừng rực trong phòng đọc sách. Nó cõng những đứa cháu của ông chủ trên lưng, hoặc đùa với chúng lăn tròn trên cỏ, và canh giữ từng bước chân của bọn trẻ khi chúng mạo hiểm mò ra đến vòi nước ở sân chuồng ngựa, hay có khi xa hơn nữa, đến tận các bãi cỏ chăn ngựa và đám đất trồng dâu. Khi đi qua lũ chó săn, Bấc bước trông oai vệ. Còn đối với bọn con Tút và Idaben thì Bấc hoàn toàn phớt lờ. Vì Bấc là vua mà! Vua của mọi thứ sinh vật bò, lết và bay, kể cả con người nữa, trong cái trang trại này của ngài thẩm phán Mi-lơ.



Bố của Bấc, tên gọi En-mô, là 1 con chó nòi Xanh Béc-na khổng lồ, đã từng là bạn khăng khít của ngài Thẩm, còn Bấc có đầy triển vọng nối gót bố. Nó không thật to lớn bằng bố - Bấc chỉ nặng có 140 pao - bởi vì Sép, mẹ của Bấc, chỉ là 1 con chó chăn cừu nòi Xcôtlen. Tuy nhiên, nặng 140 pao, lại cộng thêm vẻ chững chạc đường hoàng nhờ cuộc sống sung túc và được mọi loài kính nể, đã tạo cho Bấc 1 phong cách thật đúng là vương giả. Trong 4 năm trời từ khi sinh ra, Bấc đã sống cuộc đời của 1 nhà quý tộc được thoả mãn mọi điều. Nó rất đỗi kiêu hãnh về mình. Thậm chí có phần nào tự cho mình là đấng độc tôn - như các ngài trưởng giả nông thôn thỉnh thoảng cũng trở nên như vậy, do hoàn cảnh ếch ngồi đấy giếng của các ngài. Thế nhưng, nó đã tránh cho mình khỏi trở thành 1 giống chó nhà chỉ quen được nuông chiều. Những cuộc đi săn và những cuộc vui chơi ngoài trời tương tự đã ngăn không cho mỡ phát triển và giúp cho các bắp thịt của nó trở nên rắn chắc. Và đối với nó, cũng như đối với mọi loài thích tắm trong bồn nước lạnh, việc yêu thích nước đã là 1 món thuốc bổ giúp giữ gìn sức khoẻ.



Bấc là 1 con chó như thế đấy vào cái mùa thu năm 1897, giữa lúc "cơn sốt vàng" ở Clonđai đang lôi cuốn biết bao nhiêu người trên khắp thế gian lao vào vùng đất phương Bắc giá buốt. Nhưng Bấc lại chả hề đọc báo và Bấc cũng không biết rằng Menuơn, 1 trong những người phụ vườn, là 1 người quen bấc đắc dĩ. Menuơn có 1 nết xấu khó chừa. Gã máu me chơi xổ số Tàu. Ngay trong cuộc đỏ đen, gã lại có 1 cố tật: tin vào 1 lối đánh phân loại. Điều này chắc chắn đẩy gã vào tai hoạ. Bởi vì muốn chơi lối đánh phân loại phải có nhiều tiền, mà đồng lương của 1 chàng phụ vườn thì nay đến việc bao cho nỗi nhu cầu của vợ và cả 1 bầy con cũng còn không xong nữa là!



Ông Thẩm đang đi dự cuộc họp của Hội những người trồng nho, còn bạn trẻ thì đang bận tổ chức 1 câu lạc bộ điền kinh, trong cái đêm đáng ghi nhớ đã xảy ra vụ phản trắc của Menuơn. Chẳng 1 ai nhìn thấy Menuơn cùng Bấc băng qua vườn cây ăn quả chuồn ra ngoài, mà Bấc cũng tưởng đấy chỉ là 1 cuộc dạo chơi bình thường thôi. Khi Menuơn và Bấc ra đến ga xép Cơlítgiơ Pác thì chỉ có độc 1 người đó đứng nhìn thấy. Người đó chuyện trò với Menuơn 1 chốc, rồi người ta nghe thấy tiền trao đổi qua lại xủng xoảng.



-Mày có quấn cổ nó lại hay không? Để thế mà trao à? - người lạ mặt nói cộc cằn. Menuơn lấy 1 sợi dây thừng thắt buộc 2 vòng quanh cổ Bấc bên dưới cái vòng cổ.



-Cứ xoắn chặt lại là thừa sức làm cho nó nghẹt thở - Menuơn nói. Người lạ mặt hừm 1 tiếng tán thành trong cổ họng.



Bấc đã đứng yên để cho Menuơn buộc dây vào cổ mình. Tất nhiên, nó cũng thấy sự việc diễn biến khác thường. Nhưng Bấc đã tạo được thói quen tin tưởng vào những người nó quen biết, và nó công nhận là những con người ấy có 1 trí khôn vượt xa hẳn trí khôn của nó. Nhưng khi đầu của sợi dây thừng được đặt vào bàn tay của người lạ mặt, thì nó gừ lên đe doạ. ấy là nó cũng chỉ đơn giản muốn gợi ý cho kẻ kia biết là nó không bằng lòng, mà với đức tính kiêu hãnh của nó thì nó cho rằng gợi ý tức là ra lệnh. Thế mà có ngờ đâu chiếc dây thằng lại thít chặt lấy cổ nó, làm nó nghẹt thở. Tên này đón lấy nó nửa chừng, túm chặt lấy họng nó, rồi bằng 1 cái vặn tay khéo léo, quật nó ngã ngửa. Thế rồi, sợi dây thắt chặt lại không thương xót, còn Bấc thì điên cuồng vùng vẫy, lưỡi thè ra, lồng ngực to lớn hổn hển 1 cách vô ích. Suốt đời nó, chưa bao giờ nó lại bị đối xử đê hèn đến như vậy, và cũng suốt đời nó, chưa bao giờ nó lại giận đến như vậy. Nhưng sức Bấc kiệt dần, đôi mắt mờ dần, và Bấc lịm đi chả còn biết gì nữa, khi chuyến tàu hoả dừng lại theo hiệu cờ và 2 tên kia ném nó vào toa chở hành lý.


Nó đã bị đánh gục - nó biết vậy - nhưng không bị đánh đến tan xương. Nó vĩnh viễn nhận thấy là nó không hòng gì chống lại 1 con người có chiếc dùi cui trong tay. Nó đã học được 1 bài học mà sau này cho đến hết đời nó vẫn không hề quên. Chiếc dùi cui này là 1 sự phát hiện mới. Đó là vật đưa nó vào lãnh địa của luật lệ nguyên thuỷ, và nó nhớ rõ bài học đó.



Sự thật của cuộc đời đã mang 1 bộ mặt hung tàn hơn trước. Và trong lúc nó đương đầu với bộ mặt ấy mà không khiếp sợ, thì ấy cũng là lúc nó đương đầu bằng tất cả cái khôn ranh tiềm tàng đã được khơi dậy từ trong bản chất nó. Ngày lại ngày trôi qua, có những con chó khác đã đến, con thì bị nhốt trong thùng thưa, con thì được dắt đến bằng sợi dây thừng buộc cổ. 1 số con ngoan ngoãn, 1 số con thì điên giận và gầm thét như Bấc lúc mới đến. Và Bấc đã quan sát được tất cả bọn chúng, không sót 1 con nào, kinh qua bàn tay chế ngự của người mặc áo nịt đỏ. Đã bao lần, mỗi khi nó nhìn thấy cảnh tượng tàn bạo diễn ra, thì bài học lại trở về trong trí nó: 1 con người cầm dùi cui là 1 kẻ làm ra luật, 1 ông chủ phải được tuân lệnh, mặc dù không nhất thiết phải thần phục gã. Về điểm cuối cùng này, Bấc không bao giờ có lỗi. Mặc dù nó quả đã thấy có những con chó sau khi bị đánh vẫn lại xun xoe bên cạnh người ấy, rồi nào là vẫy đuôi mừng, nào là liếm tay gã. Và Bấc cũng đã thấy 1 con chó không chịu thần phục nhưng cũng không chịu tuân lệnh, cuối cùng bị giết trong cuộc tranh đấu để giành thế thắng.



Thỉnh thoảng lại có người đến, những người lạ, họ nói chuyện với người mặc áo nịt đỏ bằng cái giọng sôi nổi, hoặc tán tỉnh nhỏ to, bằng đủ thứ giọng. Và vào những lần như vậy, sau khi 2 bên rao tiền cho nhau, thì những người lạ mặt lại mang đi 1 vài con chó. Bấc tự hỏi không biết những con chó ấy đi đâu, vì chúng không bao giờ trở lại cả; nhưng bên trong Bấc canh cánh 1 nỗi lo sợ cho tương lai, do đó, mỗi lần không ai đả động gì đến nó cả thì nó lại mừng.



Thế nhưng cuối cùng cũng đến lượt nó. ấy là cái hôm xuất hiện 1 anh chàng bé nhỏ, nhăn nheo, nói bô bô 1 thứ tiếng Anh tồi với nhiều thán từ kỳ dị và mới lạ mà Bấc không thể hiểu nổi.



-Quỷ tha ma bắt! - anh chàng kêu to, 2 mắt sáng lên khi phát hiện ra Bấc - Thật là 1 con chó tuyệt vời! Ê! Bao nhiêu?



-300. Coi như biết không thôi đấy! - tiếng người áo đỏ trả lời ngay tức thì - Vì rằng đây cũng là tiền Nhà nước thôi, tớ chắc là cậu cũng chả phản đối gì, hả Perôn?



Perôn toét miệng cười nhăn nhở. Cứ xét giá chó nói chung đã vọt lên đến tầng mây do nhu cầu tăng 1 cách ít có, thì số tiền này cũng không phải là qua sá đối với 1 con vật tuyệt như vậy. Chính phủ Canađa chẳng thiệt gì, mà những công văn, thư từ của chính phủ chuyển đi cũng chả bị chậm hơn tí nào. Perôn là người sành về chó nên khi nhìn thấy Bấc, anh biết là trong 1000 con chó mới được 1 con như thế.



"Thậm chí 1 vạn con mới được 1 con như thế" anh thầm nhận xét trong óc.



Bấc nhìn thấy tiền trao qua đổi lại giữa 2 người, và không ngạc nhiên chút nào khi nó cùng với Cơli, 1 con chó có cái hiền lành thuộc nòi Niuphaolân, bị người đàn ông bé nhỏ nhăn heo dắt đi. Đó là lần cuối cùng nó nhìn thấy người mặc áo nịt đỏ, và khi nó cùng con Cơli đứng trên boong tàu Nauôn dõi theo thành phố Seatle đang lùi dần, thì đó là lần cuối cùng nó ngắm nhìn vùng đất phương Nam ấm áp.



Perôn đưa Bấc và Cơli xuống bên trong tàu và bàn giao chúng cho 1 anh chàng to lớn mặt đen tên là Phrăngxoa. Perôn là 1 người Canada gốc Pháp, da ngăm ngăm đen; còn Phrăngxoa, thì lại là người Canada gốc Pháp lai thổ dân, và da còn đen hơn gấp bội. Đối với Bấc, họ thuộc 1 loại người mới lạ (loại người mà số phận đã định ra cho Bấc là còn phải gặp nhiều nữa). Bấc không thấy trong lòng mình nảy nở mối thiện cảm gì đối với họ, tuy nhiên nó dần dần đâm ra kính trọng họ thật sự. Nó nhanh chóng nhận thấy rằng Perôn và Phrăngxoa là những con người công minh, bình tĩnh và vô tư trong việc thi hành công lý, và quá thông thạo về tính cách của chó, nên chó không thể lừa bịp nổi.



Trên tàu Nauôn, Bấc và Cơli đã kết bạn với 2 con chó khác: 1 con to lớn, lông trắng như tuyết, gốc gác từ quần đảo Xpitxbơgân. Hắn được 1 thuyền trưởng đánh cá voi mang đi khỏi quần đảo đó, rồi sau hắn đi theo 1 đoàn nghiên cứu địa chất đến vùng Berân cằn cỗi ở Canada.



Con chó này bề ngoài làm ra điều thân thiện theo 1 kiểu xảo trá, mỉm cười trước mặt kẻ khác nhưng đồng thời lại trù tính 1 bữa chơi khăm lén lút nào đó. Ví dụ như ngay trong bữa ăn đầu tiên cùng với Bấc, hắn đã xoáy trộm 1 phần thức ăn của Bấc. Bấc vừa vọt sang để trị tội hắn, thì sợi dây buộc đều chiếc roi của Phrăngxoa đã vút trong không khí bay đến trước quấy vào tên kẻ cắp. Thế là Bấc không còn phải làm gì nữa ngoài việc thu hồi cái xương của nó Phrăngxoa thế là công bằng, Bấc khẳng định vậy, và uy tín anh chàng người lai bắt đầu lên cao trong lòng quý trọng của Bấc.



Còn 1 con chó nữa thì không thèm làm thân với ai mà cũng không nhận sự làm thân của ai. Gã cũng không mưu toan đánh cắp gì của kẻ mới đến. Gã là 1 kẻ rầu rĩ ủ ê. Gã thẳng thừng tỏ cho Cơli biết rằng tất cả mong muốn của gã là hãy để cho gã yên 1 mình, và hơn nữa, nếu cứ động vào gã thì rồi sẽ có chuyện phiền toái đấy! Đêvơ là tên gọi của gã. Gã ăn rồi ngủ, thảng hoặc ngáp dài chả quan tâm đến cái gì sát, ngay cả lúc con tàu Nauôn vượt qua vịnh Nữ hoàng Sáclốt, hết lắc bên này lại đảo bên nọ chồm lên chúi xuống, rồi lại nhảy hất ngược cả đít lên, cứ y như đồ bị ma ám. Khi Bấc và Cơli bị kích động mạnh, hoảng sợ đến gần như phát cuồng lên, thì gã nghểnh đầu có vẻ khó chịu, nhưng rồi gã lại tỏ thái độ khoan dung với chúng bằng 1 cái liếc nhìn thờ ơ, ngáp 1 cái, rồi lại vùi đầu nằm ngủ.



Ngày cũng như đêm, con tàu rộn ràng nhịp đập không hề mệt mỏi của chiếc chân vịt, và mặc dù ngày nào cũng giống hệt như ngày nào, Bấc nhận giấy rõ ràng là tiết trời cứ càng ngày càng rét thêm lên mãi. Cuối cùng 1 buổi sáng, tiếng chân vịt ngừng bặt,v à con tàu Nauôn bỗng tràn ngập 1 không khí nhộn nhạo. Nó cảm thấy điều đó, lũ chó kia cũng cảm thấy như vậy, và chúng biết rằng sắp có 1 thay đổi gì đấy. Phrăngxoa lấy dây buộc mấy con chó lại, rồi dắt chúng lên boong. Vừa đặt chân lên trên mặt boong giá lạnh, chân Bấc sục ngay vào 1 chất trắng nõn, sền sệt như bùn. Nó vội nhảy lùi lại, khịt lên 1 tiếng. Thêm nhiều vụn của chất trắng ấy đang lả tả rơi từ trên không xuống. Nó lắc mình để giũ, nhưng lại có nhiều vụn khác rơi xuống mình nó tò mò hít cái của lạ ấy, rồi tợp 1 mảnh lên lưỡi. Cái chất ấy ran rát như lửa đốt, nhưng mất ngay. Điều đó làm nó bối rối, không hiểu được. Nó thử lại 1 lần nữa, kết quả như cũ. Những người đứng nhìn cười ầm lên, và nó cảm thấy xấu hổ, không hiểu sao cả bởi vì đó là bông tuyết đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời của nó.