To Sir Phillip With Love
Chương 1 :
Ngày đăng: 15:41 19/04/20
Tháng Hai năm 1823.
Gloucestershire, Anh Quốc.
Mỉa mai làm sao, thật thế, chuyện ấy đã xảy ra vào một ngày đầy nắng.
Ngày nắng đầu tiên trong, gì nhỉ – sáu tuần bầu trời xám xịt liên tục, đi cùng là những đợt tuyết nhẹ rơi rải rác, hay thỉnh thoảng là lác đác cơn mưa? Ngay cả khi Phillip, nghĩ rằng chính bản thân anh trơ ra trước thói đỏng đảnh thất thường của thời tiết, đã cảm thấy tinh thần thư thái hơn, và nụ cười trở nên tươi rói. Anh đã đi ra ngoài – anh phải thế. Không ai có thể ở lại trong nhà suốt một ngày nắng rực rỡ huy hoàng đến vậy.
Đặc biệt là giữa một mùa đông xám ngoét.
Ngay cả bây giờ, hơn một tháng sau ngày hôm ấy, anh không thể nào tin được mặt trời lại có thể táo bạo trêu chọc anh lần nữa.
Và làm sao anh có thể mù quáng trông mong vào việc ấy? Anh đã sống với Marina từ lúc họ kết hôn. Tám năm dài ròng rã để biết về một người phụ nữ. Anh nên mong đợi mới phải. Và sự thật…
Chà, sự thật là, anh đã mong đợi nó. Anh chỉ không muốn thú nhận niềm trông mong. Có lẽ anh chỉ đang cố lừa dối bản thân, thậm chí tự bảo vệ chính anh. Để ẩn giấu khỏi sự hiển nhiên, hy vọng là nếu anh không nghĩ, nó sẽ không bao giờ xảy ra.
Nhưng chuyện đó đã xảy ra. Và vào một ngày đầy nắng. Chúa hẳn phải có một khả năng hài hước chán ghét.
Anh cúi xuống nhìn ly whiskey, chẳng hiểu sao, đã cạn sạch. Anh chắc phải nốc cái thứ chết dẫm này, vậy nhưng anh không có bất kỳ ký ức nào về việc làm đó. Anh không cảm thấy chuếnh choáng, ít nhất không chuếnh choáng như anh nên phải thế. Hay không chuếnh choáng như anh muốn.
Anh chằm chằm nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi mặt trời ở phía chân mây. Đây phải là một ngày ngập tràn ánh nắng khác. Đó dường như giải thích được tâm trạng ngoại lệ ủ ê của anh. Ít nhất anh hy vọng thế. Anh muốn một lời giải thích, cần một sự cắt nghĩa, cho sự chán chường tồi tệ dường như đang tiếp nối. Sự sầu muộn làm kinh hãi anh.
Hơn bất cứ thứ gì khác. Hơn cả lửa, hơn cả chiến tranh, hơn cả bản thân địa ngục. Ý nghĩ sẽ nhúng chìm trong buồn bã, của việc giống như cô…
Marina đã luôn luôn sầu muộn. Marina đã dành cả quãng đời cô, hay ít nhất cả quãng đời anh biết, sầu muộn. Anh không thể nhớ âm thanh tiếng cười cô, và sự thật là, anh không chắc anh có bao giờ biết nó.
Đây là một ngày đầy nắng, và – anh nhắm chặt mắt lại, dù không chắc cử chỉ ấy có nghĩa thúc giục ký ức hay xua nó đi. Đó là một ngày đầy nắng, và…
…
“Không bao giờ mày cảm thấy da mày giống như thế này lần nữa sao, hả, Ngài Phillip?”
Phillip Crane quay về phía mặt trời, khép mắt lại khi để sự ấm áp trải ra trên da anh. “Thật hoàn hảo.” Anh lầm bầm. “Hay nó sẽ như thế, nếu không lạnh đến chết được.”
Miles Carter, thư kí của anh, tặc lưỡi. “Không lạnh đến thế đâu. Mặt hồ không đóng băng năm nay. Chỉ có vài chỗ loang lổ.”
Miễn cưỡng, Phillip quay ra khỏi ánh nắng và mở mắt. “Dù vậy, đây không phải mùa xuân.”
“Nếu ngài đang mong ước mùa xuân, thưa ngài, có lẽ ngài nên xem lịch thì hơn.”
Phillip lườm xéo cậu ta. “Tôi trả lương cho cậu vì sự xấc láo này?”
“Thật thế. Và cũng vì tôi khá đẹp trai nữa.”
Phillip tự mỉm cười với bản thân, khi cả hai người đàn ông dừng lại để tận hưởng ánh nắng trong một lúc lâu.
“Tôi nghĩ ngài không bận tâm đến vẻ xám xịt.” Miles trò chuyện, khi họ tiếp tục di chuyển đến nhà kính của Phillip.
“Đúng vậy.” Phillip nói, sải bước tiến về phía trước với vẻ tự tin của một vận động viên bẩm sinh. “Nhưng chỉ bởi vì tôi không phiền về bầu trời đầy mây, không có nghĩa là tôi không thích mặt trời.” Anh dừng lại, suy nghĩ trong một thoáng. “Hãy đảm bảo là nói với bảo mẫu Millsby dẫn bọn trẻ ra ngoài vào hôm nay. Chúng sẽ cần những chiếc áo choàng ấm áp, dĩ nhiên thế, và những chiếc mũ, găng tay, cùng những thứ tương tự, nhưng chúng cần nhận một tý ánh nắng mặt trời. Chúng đã bị giam chân quá lâu rồi.”
“Tất cả chúng ta đều thế.” Miles lẩm bẩm.
Phillip tặc lưỡi. “Thật vậy.” Anh liếc qua vai về phía nhà kính. Anh lẽ ra phải nên xem xét đến thư từ bây giờ, nhưng anh có vài hạt giống cần phân loại, và thực lòng, không có lý do gì anh không thể hướng dẫn công việc của mình với Miles chỉ trong một giờ hay cỡ đó. “Đi tiếp đi.” Anh nói với Miles. “Tìm bảo mẫu Millsby. Cậu và tôi có thể bàn chuyện sau. Dù sao cậu cũng biết là cậu ghét nhà kính.”
“Không phải mùa này trong năm.” Miles nói. “Sức nóng thật đáng được chào đón.”
Phillip cong một bên mày khi anh nghiêng đầu về phía Romney Hall. “Cậu đang gọi căn nhà tổ tiên của tôi là đầy gió lùa?”
“Tất cả những căn nhà do tổ tiên để lại đều đầy gió lùa.”
“Vừa đúng.” Phillip nói với một nụ cười toe toét. Anh khá thích Miles. Anh đã thuê cậu ấy sáu tháng trước, để giúp đỡ một núi công việc giấy tờ cùng cả đống chi tiết, mà có vẻ như chất chồng từ việc điều hành gia sản nho nhỏ của anh. Miles khá tuyệt vời. Trẻ tuổi, nhưng giỏi giang. Và tính hài hước tỉnh khô của cậu ấy hoàn toàn được chào đón ở đây, nơi tiếng cười chẳng bao giờ dư dả. Những người hầu sẽ không bao giờ dám đùa giỡn với Phillip, và Marina… à thì, chẳng cần nói ra việc Marina không bao giờ cười đùa hay trêu ghẹo.
Lũ trẻ đôi khi khiến Phillip bật cười, nhưng đó là một kiểu hài hước khác, và hơn nữa, phần lớn thời gian anh không biết phải nói gì với chúng. Anh đã cố, nhưng rồi anh cảm thấy quá ngại ngùng, quá to lớn, quá mạnh mẽ, để một việc như thế có thể xảy ra. Và rồi anh chỉ thấy chính mình xuỵt chúng đi, nói rằng chúng hãy trở lại với bà bảo mẫu.
Đó là cách dễ dàng hơn.
“Vậy, đi đi.” Phillip nói, đưa cho Miles một yêu cầu mà anh lẽ ra nên tự mình làm. Anh đã không thấy con anh hôm nay, và anh tin rằng anh nên thế, nhưng anh không muốn phá hủy một ngày bằng cách nói gì đó nghiêm khắc, điều mà anh chắc chắn sẽ làm.
Anh sẽ tìm chúng khi chúng đi dạo với bảo mẫu Millsby. Đó là một ý hay. Sau đó anh có thể hướng sự chú ý của chúng tới vài loại cây và nói về nó, và mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản, hoàn hảo và tốt lành.
Phillip bước vào nhà kính và đóng cửa lại sau anh, hít vào một hơi chào đón. Anh đã học về thực vật học ở Cambridge, đứng đầu lớp, và sự thật, anh đã có thể tiếp tục quãng đời học tập của mình, nếu anh trai anh không qua đời ở Waterloo, đẩy đứa con thứ là Phillip đây vào vai trò của một địa chủ và một quý ngài dân dã.
Anh cho là nó có thể tệ hơn. Cuối cùng, anh có thể trở thành một người địa chủ và một quý ngài thành thị. Ít nhất, anh có thể đeo đuổi nghề nghiệp về những loài thực vật của mình trong sự thanh thản thích hợp.
Anh cong người qua chiếc bàn thợ mộc của mình, kiểm tra công trình mới nhất – những hạt đậu mơn mởn mà anh đang cố gây giống, để chúng trở nên mập mạp và căng phồng hơn trong vỏ. Lô mới nhất này không chỉ nhăn nhúm lại, mà thậm chí còn biến thành màu vàng, sau cùng không phải là một kết quả được trông đợi.
Phillip cau mày, rồi cho phép bản thân anh khẽ mỉm cười khi di chuyển đến góc nhà kính, để tập hợp những nguồn dự trữ lại. Anh chưa bao giờ quá kinh hãi bận lòng, khi những cuộc thử nghiệm của anh không đạt được như mong muốn. Theo ý kiến anh, cái khó bao giờ cũng ló cái khôn.
Những sự rủi ro. Tất cả là về những rủi ro. Không một nhà khoa học nào sẽ thừa nhận nó, dĩ nhiên, nhưng phần lớn các phát minh vĩ đại chợt lóe lên, trong khi một người đang cố gắng giải quyết một vấn đề hoàn toàn khác.
Anh cười lặng lẽ khi đặt những hạt đậu nhăn nhúm lại sang một bên. Với tỷ lệ này, anh sẽ chữa khỏi cho chúng vào cuối năm.
Trở lại công việc. Trở lại công việc. Anh chồm qua bộ sưu tập hạt giống của anh, dàn nhẹ chúng ra để anh có thể kiểm tra tất cả. Anh chỉ cần một hạt bên phải cho–
Anh ngước lên và nhìn qua tấm kính mới được rửa sạch. Một sự chuyển động qua khu đất đập vào mắt anh. Một ánh chớp đỏ.
Đỏ. Phillip tự mỉm cười với bản thân khi anh lắc đầu. Đó phải là Marina. Đỏ là màu yêu thích của cô, cái gì đó khiến anh luôn cảm thấy kỳ lạ. Bất cứ ai trải qua bất kỳ thời gian nào với cô, sẽ chắc chắn nghĩ rằng cô ưa thích một sắc màu tối hơn, ảm đạm hơn.
Anh quan sát cô biến mất vào trong những bụi cây nhỏ, rồi trở lại với công việc. Hiếm khi Marina mạo hiểm ra ngoài. Những ngày này cô không thường rời khỏi nơi giam cầm trong phòng ngủ. Phillip sung sướng khi thấy cô ngoài ánh nắng mặt trời. Có thể nó sẽ hồi phục lại tinh thần cô. Không hoàn toàn, tất nhiên thế. Phillip thậm chí không nghĩ ánh nắng có khả năng làm việc đó. Nhưng có thể một ngày tươi sáng, ấm áp sẽ đủ kéo cô ra ngoài vài giờ, mang lại một nụ cười bé nhỏ trên gương mặt cô.
Chúa biết bọn trẻ có thể cần điều ấy. Chúng thăm mẹ hầu hết ở trong phòng vào mỗi buổi sáng, nhưng thế vẫn chưa đủ.
Và Phillip biết thiếu hụt ấy anh không thể bù đắp được.
Anh thở dài, một cơn sóng tội lỗi dâng lên. Anh không phải là người cha chúng cần, anh biết điều đó. Anh cố tự nói với bản thân anh đang cố hết sức, rằng anh đang tiến tới thành công trong những mục đích duy nhất của đời anh là làm một bậc cha mẹ tốt – rằng anh không cư xử như cha anh.
Nhưng dù vậy, anh biết thế vẫn chưa đủ.
Với những dáng điệu kiên quyết, anh tự đẩy bản thân ra khỏi chiếc bàn thợ mộc của mình. Những giống cây có thể đợi. Các con anh cũng có thể đợi, nhưng không có nghĩa là chúng cần thế. Và anh nên để chúng lại với buổi đi dạo, không phải bảo mẫu Millsby, người không biết một một cành rụng từ một cây tùng bách, và gần như sẽ chắc nói với chúng rằng hoa hồng là hoa cúc, và…
Anh liếc qua ngoài cửa sổ lần nữa, tự nhắc bản thân bây giờ đang là tháng Hai. Bảo mẫu Millsby không giống như định vị được bất cứ loại hoa nào trong thời tiết thế này, nhưng dù sao, điều ấy không phải là cái cớ cho việc anh nên để cho bọn trẻ đi dạo. Đấy là một trong những hoạt động của trẻ con mà anh thực sự nổi trội, và anh không nên né tránh trách nhiệm.
Anh sải bước ra khỏi nhà kính, nhưng rồi dừng hẳn, khi chưa đến một phần ba đường trở lại Romney Hall. Nếu anh làm bọn trẻ vui thích, anh nên để chúng gặp mẹ. Chúng khát khao ở bên cô, dù ngay cả khi cô không làm gì hơn là vỗ vỗ vào đầu chúng. Phải, chúng sẽ tìm Marina. Điều đó thậm chí nghe có ích hơn là một buổi đi dạo ngoài trời.
Nhưng từ kinh nghiệm của mình, anh biết không nên để tâm trạng Marina dính vào việc ấy. Chỉ bởi vì cô liều lĩnh ra ngoài, không có nghĩa là cô cảm thấy tốt. Và anh ghét việc để bọn trẻ thấy cô trong tâm trạng ủ ê.
Phillip quay lại và hướng về phía bụi cây, nơi Marina biết mất vài lúc trước. Anh đi nhanh gấp hai lần so với Marina, nên không lâu nữa sẽ bắt kịp cô, và xác định được tâm trạng cô bây giờ. Anh có thể trở lại chỗ phòng bọn trẻ, trước khi anh để chúng bắt đầu lên đường với bảo mẫu Millsby.
Anh đi xuyên qua những bụi cây, dễ dàng theo dấu vết của Marina. Mặt đất ẩm ướt, và Marina hẳn đã mang đôi bốt nặng nề, vì dấu chân cô in trên mặt đất khá rõ ràng. Chúng dẫn xuống con đường dốc và ra khỏi những bụi cây, sau đó là trên con đường đầy cỏ.
“Chết tiệt.” Phillip lầm bầm, âm thanh chỉ vừa đủ để nghe thấy khi cơn gió thổi qua anh. Không thể nào thấy được dấu chân cô trên cỏ. Anh dùng tay để che cho khỏi chói, và lướt mắt về phía xa, tìm kiếm một dấu hiệu đỏ chỉ dẫn.
Không ở gần chòi nhà tranh bỏ hoang, không ở cánh đồng nơi Phillip dùng cho những cuộc thử nghiệm giống cây, không ở tảng đá lớn Phillip đã trải qua nhiều giờ leo trèo thuở anh còn nhỏ. Anh quay về phía bắc, đôi mắt nheo lại khi cuối cùng đã thấy cô. Cô đang thẳng hướng đến mặt hồ.
Mặt hồ.
Môi Phillip há ra khi anh chăm chăm nhìn vào dáng cô, di chuyển chậm rại đến mép nước. Anh hoàn toàn đông cứng; thật ra thì anh còn hơn cả thế, anh… đờ ra… khi tâm trí anh nhá lên một tia sáng lạ lùng. Marina không biết bơi. Anh thậm chí không biết nếu cô có thể. Anh cho là cô vừa nhận thức được có một cái hồ ở khu đất đó, anh chưa lần nào thấy cô đến đó, chưa một lần trong tám năm trời họ lấy nhau. Anh bắt đầu bước về phía cô, bằng cách nào đó, những bước chân anh chấp nhận điều mà tâm trí anh từ chối. Khi cô bước xuống dòng nước cạn, anh bắt đầu tăng tốc, dù vẫn còn quá xa để làm bất cứ việc gì ngoài thét gọi tên cô.
Nhưng nếu cô nghe thấy anh, cô chẳng biểu lộ gì, vẫn tiếp tục những bước đi chậm rãi và vững vàng ra sâu hơn.
“Marina!” Anh thét gọi, bắt đầu chạy thục mạng. Anh vẫn còn cách khoảng một lúc ngắn nữa, thậm chí là với vận tốc tối đa của anh. “Marina!”
Cô tới nơi đáy hồ tụt xuống, và cô cũng hụt chân mất dạng, biến mất dưới mặt nước xám não lòng, chiếc áo choàng đỏ nơi cô trôi bập bềnh trên mặt nước vài giây, trước khi cùng cô mất hút.
Anh thét gọi tên cô lần nữa, dù cô không thể nghe. Anh phanh lại và ngã nhào xuống con dốc dẫn đến mặt hồ, rồi tâm trí anh chỉ kịp nhận ra việc anh giật mạnh áo choàng và đôi bốt, trước khi lặn xuống dòng nước lạnh lẽo giá băng. Cô chìm chưa tới một phút; tâm trí anh nhận ra chắc chắn chừng ấy thời gian không đủ để làm cô chết đuối, nhưng cứ mỗi giây trôi qua cho việc tìm kiếm cô, sẽ là thêm một giây nữa dẫn cô đến cái chết.
Anh đã bơi lội trong hồ nhiều lần không đếm hết, biết chính xác nơi đáy sâu, và anh với tới nơi mấu chốt ấy một cách nhanh chóng, chỉ vừa vặn chú ý đến những trang phục nặng nề của anh bị dòng nước ngáng đường.
Anh có thể tìm thấy cô. Anh phải tìm thấy cô.
Trước khi quá trễ.
Anh lặn xuống, lướt mắt qua dòng nước tối mù. Marina hẳn phải đá tung vào vài đụn cát dưới đáy hồ, và anh chắc chắn đã làm điều tương tự, vì cát xoay vần xung quanh anh, những đám cát mờ đục quấy tung lên, khiến việc nhìn thấy trở nên khó khăn.
Nhưng cuối cùng, Marina được cứu bởi một thói quen về màu sắc sặc sỡ của cô. Khi Phillip xuyên qua dòng nước, xuống dưới tận đáy, nơi anh trông thấy màu đỏ của áo choàng cô trôi nổi như một con diều uể oải. Cô không chống lại khi anh lôi cô lên; quả thật vậy, cô đã mất tỉnh táo, và không khác gì một cơ thể như đã chết nặng nề trong tay anh.
Họ trồi lên mặt nước, và anh hổn hển thở dữ dội để lắp đầy khí vào hai lá phổi đang rát bỏng. Trong một thoáng, anh không thể làm gì khác hơn ngoài việc hít thở, cơ thể anh nhận ra phải cứu chính mình trước khi có thể cứu ai khác. Rồi anh đỡ cô, cẩn thận để gương mặt cô trên mặt nước, dù cô không có vẻ gì là đang thở.
Cuối cùng, khi họ đi đến mép hồ, anh kéo cô lên chỗ chật hẹp dơ bẩn nằm giữa dòng nước và bãi cỏ. Anh điên cuồng di chuyển tay kiểm tra xem cô còn thở không, nhưng chẳng có tí dấu hiệu hơi thở nào từ môi cô.
Sau cùng, cô đã rời khỏi nhà và tất cả những gì thân quen.
Cô đang đi được nửa đường kéo dài khắp nước Anh, và không ai biết.
Không ai.
Ngay cả Ngài Phillip.
Vì cô vội vã rời London, cô đã lơ đãng không nói cho anh biết cô sẽ đến. Không phải là cô quên; đúng hơn là, cô phần nào… đặt chuyện ấy qua một bên trước khi mọi việc quá trễ.
Nếu cô nói với anh, cô cần thay đổi kế hoạch. Với cách này, cô vẫn còn cơ hội quay lại vào bất cứ lúc nào. Cô tự nói với chính mình, vì cô thích có những lựa chọn và xem xét, nhưng sự thật, cô đơn giản là hoàn toàn chết khiếp, và cô sợ sẽ đánh mất tất cả dũng cảm.
Hơn nữa, anh là người duy nhất đã yêu cầu gặp gỡ. Anh sẽ hạnh phúc được thấy cô.
Phải thế không?
---o0o---
Phillip đứng dậy khỏi giường, kéo tấm màn cửa ra khỏi phòng ngủ, phát hiện ra một ngày nắng ấm hoàn hảo khác.
Hoàn hảo.
Anh nhẹ bước về phía phòng thay phục trang để tìm quần áo, đã từ lâu kể từ khi cho những người hầu thường thực hiện những loại nhiệm vụ kiểu này thôi việc. Anh không thể giải thích, nhưng sau khi Marina qua đời, anh đã không muốn bất kỳ ai lăng xăng vào phòng ngủ anh buổi sáng, giật mạnh những tấm màn cửa của anh, và chọn trang phục cho anh.
Anh thậm chí cho thôi việc cả Miles Carter, người đã rất cố gắng để trở thành một người bạn, sau khi Marina ra đi. Nhưng không hiểu sao, tên thư ký trẻ tuổi chỉ làm anh cảm thấy tồi tệ hơn, và vì vậy anh gửi cậu ta đi, cùng với sáu tháng lương và một bức thư giới thiệu tuyệt vời.
Anh đã dành cả quãng thời gian trong cuộc hôn nhân với Marina để tìm kiếm một người nào đó cùng trò chuyện, vì cô thường thẫn thờ, nhưng giờ cô đã đi, tất cả những gì anh cần là tự làm bạn với chính mình.
Anh cho là anh chắc phải ám chỉ đến một trong nhiều lá thư từ cô Eloise Bridgerton bí ẩn, vì anh đã gửi lời đề nghị không-hẳn-là-kết-hôn-nhưng-có-thể-là-cái-gì-đó-dẫn-đến-việc-ấy hơn một tháng trước, và sự im lặng nơi cô đã phần nào nói lên, đặc biệt là vì cô thường trả lời những lá thư anh với sự say mê sốt sắng.
Anh cau mày. Cô Eloise Bridgerton bí ẩn không thực sự quá huyền bí. Trong những lá thư của mình, cô khá cởi mở, chân thật, và chắc chắn sở hữu một tính cách tươi vui. Khi cô có tất cả điều ấy, thực sự đó là tất cả những gì anh khăng khăng thời gian cho một người vợ đã tới.
Anh giật mạnh một cái áo sơ mi mặc khi làm việc; anh đã lên kế hoạch trải qua hầu hết thời gian trong nhà kính, xắn tay áo dơ bẩn lên. Anh khá thất vọng vì cô Bridgerton rõ ràng quyết định, anh là loại người mất trí quá khích, cần tránh bằng bất cứ giá nào. Cô có vẻ như là giải pháp hoàn hảo cho những vấn đề của anh. Anh tuyệt vọng cần một người mẹ cho Amanda và Oliver, nhưng chúng trở nên quá cứng đầu đến mức, anh không thể tưởng tượng bất kỳ người phụ nữ nào sẵn sàng đồng ý dính chặt với anh trong hôn nhân,và như vậy tự trói buộc mình với hai đứa nhóc con quái quỷ cả đời (hay ít nhất cho đến khi chúng trưởng thành).
Tuy nhiên, cô Bridgerton đã hai mươi tám, quá rõ ràng là một gái già. Và cô trao đổi thư từ với một người tuyệt đối xa lạ trong hơn một năm; chắc hẳn cô có phần nào tuyệt vọng? Không phải cô đánh giá cao cơ hội tìm kiếm một người chồng? Anh có một ngôi nhà, một gia sản khá lớn, và chỉ mới ba mươi tuổi. Cô còn có thể muốn gì hơn nữa?
Anh làu bàu vài cụm từ khó chịu khi thọc mạnh chân vào cái quần bằng vải len xù xì. Rõ ràng cô muốn gì đó hơn nữa, không thì cô đã ít nhất lịch sự viết thư trả lời và từ chối.
RẦM!
Phillip khẽ liếc lên trần nhà và nhăn mặt. Romney Hall đã cũ kỹ, vững chắc, và được xây rất kiên cố, và nếu cái trần nhà của anh đang rung lên, vậy thì các con anh đã quăng (thảy? ném mạnh?) cái gì thật sự rất lớn.
RẦM!
Anh cau mày. Điều ấy thậm chí nghe tệ hơn. Dù vậy, bà bảo mẫu đang trên ấy với chúng, và bà luôn xoay sở với chúng tốt hơn anh. Nếu anh có thể mang đôi bốt vào dưới một phút, anh có thể ra khỏi nhà trước khi hai đứa nhóc nện thêm vài cú phá hoại nữa, do đó anh có thể vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Anh với tới đôi bốt. Đúng vậy, một ý kiến xuất sắc. Biến ra khỏi tầm nghe, ra khỏi tầm suy nghĩ.
Anh xong phần còn lại với một tốc độ ấn tượng và lao ra đại sảnh, nhanh chóng sải bước về những bậc cầu thang.
“Ngài Phillip! Ngài Phillip!”
Chết tiệt. Giờ tên quản gia đang ở sau anh.
Phillip vờ như không nghe.
“Ngài Phillip!”
“Khỉ gió.” Anh lẩm bẩm. Không có cách nào anh có thể làm ngơ tiếng rống đó, trừ khi anh sẵn sàng chịu đựng sự tra tấn lởn vởn của bọn người hầu, lo lắng về việc tai anh rõ ràng điếc đặc.
“Ừ.” Anh nói, chậm rãi quay lại. “Gì vậy Gunning?”
“Ngài Phillip.” Gunning nói, hắng giọng. “Chúng ta có một người đến thăm.”
“Một người đến thăm?” Phillip nói. “Đó có phải là nguồn gốc của, ờ…”
“Tiếng ồn?” Gunning thêm vào đầy hữu ích.
“Phải.”
“Không.” Tên quản gia hắng giọng. “Cái đó la do các con ngài.”
“Ta hiểu.” Phillip lầm bầm. “Ngu xuẩn làm sao khi ta hy vọng vào cái gì khác.”
“Tôi không tin là bọn trẻ phá vỡ bất kỳ thứ gì đây, thưa ngài.”
“Đó là một sự giảm nhẹ và thay đổi.”
“Thật thế, thưa ngài, nhưng vẫn còn một người đến thăm để suy nghĩ.”
Phillip rên lên. Kẻ quái quỷ nào trên trái đất lại đến thăm vào giờ này của buổi sáng? Họ không quen với việc nhận những người đến thăm, thậm chí là trong những khoảng thời gian phù hợp hơn.
Gunning cố gắng mỉm cười, nhưng ai cũng có thể thấy hắn ta đang thất bại. “Chúng ta thường có những người đến thăm, ngài có nhớ không?”
Đó là vấn đề với những tên quản gia làm việc cho gia đình trước khi ai đó được sinh ra. Bọn họ có xu hướng nghĩ về nhũng lời châm chọc ca ngợi.
“Người đến thăm này là ai?”
“Tôi không hoàn toàn chắc lắm, thưa ngài.”
“Ngươi không chắc lắm?” Phillip không tin được hỏi.
“Tôi không tìm hiểu.”
“Đó không phải là việc những quản gia cần làm sao?”
“Tìm hiểu, thưa ngài?”
“Đúng thế.” Phillip gầm lên, tự hỏi Gunning có phải đang cố gắng để trông thấy ông chủ mình đỏ mặt tía tai như thế nào, để có thể thực sự đổ sụp xuống sàn ngập máu.
“Tôi đã nghĩ để cho ngài hỏi điều ấy, thưa ngài.”
“Ngươi nghĩ ngươi để ta dò hỏi.” Lần này một câu nói phát ra, Phillip nhận thấy thật vô ích khi hỏi tiếp.
“Vâng, thưa ngài. Sau cùng thì, cô ấy đến đây để gặp ngài.”
“Như tất cả những người đến thăm khác của chúng ta, và chưa có gì ngăn ngươi khỏi việc tìm hiểu thân thế của họ trước đây.”
“À, thực ra thì, thưa ngài–”
“Ta hoàn toàn chắc chắn–” Phillip cố gắng ngắt ngang.
“Chúng ta không có người đến thăm, thưa ngài.” Gunning kết thúc, rõ ràng chiến thắng trong trận chiến tranh luận.
Phillip mở miệng để chỉ ra rằng họ đã có những người đến thăm, vào lúc này, từ đây xuống dưới chỉ có một tầng; nhưng thực sự là, đó có phải là vấn đề? “Tốt thôi.” Anh nói, hoàn toàn cáu tiết. “Ta sẽ đi xuống tầng dưới.”
Gunning rạng rỡ. “Xuất sắc, thưa ngài.”
Phillip trân trối nhìn tên quản gia vì sốc. “Người không khỏe hả, Gunning?”
“Không, thưa ngài. Sao ngài lại hỏi thế?”
Thật bất lịch sự khi chỉ ra rằng nụ cười toác hoác khiến Gunning trông khá giống một con ngựa, nên Phillip chỉ lầm rầm, “Không có gì.” và hướng xuống các bậc thang.
Một người đến thăm? Ai là người đến thăm? Đã không ai đến đây trong gần một năm, kể từ khi những người hàng xóm hoàn tất các cuộc thăm hỏi chia buồn bắt buộc. Anh cho là anh không thể thực sự trách cứ vì họ đã giữ khoảng cách; lần cuối cùng họ đến thăm, Oliver và Amnada đã trét mứt dâu lên những chiếc ghế.
Quý bà Winslet đã rời đi trong một tâm trạng tức giận xa hơn bất cứ thứ gì Phillip nghĩ, là tốt cho sức khỏe của một người ở tuổi ấy.
Phillip nhăn mặt khi anh đến những nấc thang cuối cùng, và xoay lại cửa vào đại sảnh. Đây không phải là bà ấy đó chứ, nhỉ? Không phải Gunning đã nói khách của anh là một người phụ nữ sao?
Anh bất chợt dừng lại; thậm chí vấp chân.
Bởi người phụ nữ đứng trước cửa vào đại sảnh còn trẻ, khá xinh, và khi cô ngẩng lên gặp cái nhìn chăm chăm của anh, anh trông thấy cô có đôi mắt xám to nhất, đẹp đến nhói lòng mà anh chưa bao giờ được biết.
Anh có thể chết chìm trong đôi mắt ấy.
Và Phillip không, ngay cả một lần nào có thể tưởng tượng ra, thậm chí nông nổi nghĩ đến từ chết chìm lần nữa.