Tống Thì Hành

Chương 116 : Giải từ (Hạ)

Ngày đăng: 01:47 20/04/20


Ngọc Doãn nhìn bộ dạng ngây dại của Vương Thắng thì trong lòng thầm cười lạnh.



Ta không chọc ngươi thì thôi, ngươi lại tìm ta để gây chuyện?



Vậy thì cũng đừng trách ta không nể mặt ngươi!



Nghĩ đến đây hắn ngồi xuống nâng chén rượu lên uống một ngụm cho nhuận giọng, nói tiếp:



- Đoạn sáu câu này như là Lý nương tử tức cảnh sinh tình chỉ trong một ngày đêm mà sáng tác ra. Một mình trên thuyền lan, vốn muốn giải nỗi ưu sầu nhưng ngóng mây trời, trời lại xa vời. Theo Tiểu Ất nghĩ, giải từ chính là chín câu "Nhất vọng đoạn thiên nhai, thần trì tượng ngoại". Mặc dù vẫn chưa đủ ý nhưng cũng có thể biểu đạt được ý tứ sâu xa trong đó.



Những lời bình của Ngọc Doãn không hề nói đến tình cảm nam nữ.



Mà chín từ "Nhất vọng đoạn thiên nhai, thần trì tượng ngoại" đúng như lời hắn nói vậy, chưa hết ý nhưng lại chuẩn xác nhất.



Lý Thanh Chiếu nhẹ nhàng gật đầu, lộ vẻ tán thưởng.



- Mà ba câu cuối cùng của bài, ta nghĩ mãi nhưng không nghĩ ra giải từ nào hay hơn.



Chỉ cảm thấy "Nhật biên tiêu tức không trầm trầm, họa mi lâu thượng sầu đăng lâm; lại có "Bằng cao mục đoạn, hồng nhạn lai thì, vô hạn tư lượng chi ý”. Tần Quán từng sáng tác câu ”Khốn ỷ nguy lâu, quá tẫn phi hồng tự tự sầu, tuy nghĩa khá gần nhưng cẩn thận ngẫm nghĩ thì câu “Vô ngôn độc thượng tây lâu, nguyệt như câu” mới nói đúng ý nghĩa của câu: “ Nhạn tự hồi thì, nguyệt mãn tây lâu”.



Cho nên ba câu từ này chẳng thà dùng một bài thơ thất tuyệt làm giải từ có lẽ chuẩn xác hơn.



Ngọc Doãn nói vậy khiến mọi người thay đổi sắc mặt.



Trong các câu thơ vừa nói kia toàn là do cổ nhân sáng tác nhưng lại được Ngọc Doãn thuộc lòng hiểu rõ thật sự khiến người ta cảm thấy kính nể.



Lý Dật Phong vội khom người nói:



- Xin lắng tai nghe.



Bài thơ Tả Tình do Lý Ích sáng tác:



“Thủy văn trân điệm tư du du



Thiên lý giai kỳ nhất tịch hưu



Tòng thử vô tâm ái lương dạ



Nhâm tha minh nguyệt hạ tây lâu.”



Bài thơ “Nhất tiễn mai” của Lý Thanh Chiếu và bài “Tả Tình” của Lý Ích thi nhân đời Đường đều miêu tả chiếu trúc, ánh trăng, tây lầu.



Ngọc Doãn dùng bài thơ này để làm giải từ, chẳng những giải được ba câu khó hiểu cuối cùng, đồng thời còn kết thúc luôn.



Lý Dật Phong hơi sửng sốt quay sang nhìn Cao Nghiêu Khanh và Tần Cối, trong mắt bất giác lộ vẻ sợ hãi kinh ngạc.



Bọn họ kinh ngạc sự hiểu biết rộng của Ngọc Doãn, kinh ngạc vì Ngọc Doãn có thể hạ bút thành văn.



Cao Nghiêu Khanh và Tần Cối còn đỡ, nhưng Lý Dật Phong lại biết trong nhà Ngọc Doãn không có sách gì, sao lại biết nhiều thi từ đến vậy?



Triệu Phúc Kim bật cười vỗ tay, trong mắt Lý Thanh Chiếu ngập lệ nóng, liên tục khen ngợi.



Ngọc Doãn giải từ chẳng những giữ lại thể diện cho Lý Thanh Chiếu, đồng thời còn nói ra được cảm thụ và tâm trạng của Lý Thanh Chiếu khi sáng tác thơ.



Người đàn ông kia sao lại hiểu được tâm tư nữ nhân?



Mặc dù Lý Thanh Chiếu không nói gì nhưng vẻ tán thưởng trên mặt đã bộc lộ hẳn ra ngoài.
Vương Thắng hoảng sợ.



Cái gọi là tác phác chính là dùng bộ phận trên thân thể để đặt cược: tay, chân, mắt, thậm chí ngay tính mạng cũng có thể tác phác.



- Tiểu Ất, ngươi cần gì phải thế?



Lý Dật Phong thấp giọng khuyên:



- Thất Huyền Cầm này không giống như Kê Cầm.



Ngọc Doãn xoa nhẹ gò mà.



Hành động này người khác không để ý, nhưng lại bị Vương Thắng phát hiện.



Hừ, ngươi tiếp tục giả bộ, gạt được ta sao? Tuy nhiên, ngươi muốn cùng ta tác phác, thân phận ngươi là gì chứ? Ngươi lại tính cái gì vậy?



Vương Thắng trầm ngâm suy nghĩ một chút rồi trầm giọng nói:



- Cầm này của ta chính là danh cầm nguyên niên Đại Đường Vũ Đức chế tạo, mặc dù không được coi là vô giá nhưng giá trị ở trên thị trường cũng phải trên một trăm ngàn quan...



Nếu ta thua ngươi thì sẽ giao cầm này cho ngươi!



Lời vừa ra khỏi miệng, Vương Thắng không nén nổi sự đau lòng.



Thất Huyền Cầm này là báu vật được Vương Phủ vô cùng yêu thích.



Vốn lần này mượn trổ tài tại thi xã để thu hút sự chú ý của Đế Cơ, có thể chiếm được trái tim mỹ nhân, từ nay về sau thăng quan tiến chức.



Nào ngờ Ngọc Doãn lại xuất hiện ngáng giữa đường, đoạt lấy sự nổi bật của gã.



Vương Thắng tự nhận tài đánh đàn không tầm thường, trước kia đấu cầm cùng người khác chưa bao giờ thất bại.



Mà nay gã so tài với Ngọc Doãn. Về thi từ, gã thật sự không có lòng tin, người trước mắt này quả thật như một quái thai, có thể đem thi từ hạ bút thành văn, bản lĩnh thi từ này tuyệt đối không kém, có lẽ còn hơn gã gấp bội.



Nếu thi từ đã không chiếm thế thượng phong, vậy thì chỉ có thể đấu cầm!



Về phương diện này, Vương Thắng tin tưởng có thể sẽ thắng.



Ngọc Doãn nheo mắt lại thành một đường nhỏ, tỉ mỉ đánh giá đàn cổ trên bàn, âm thầm tán thưởng không ngừng.



Mai Hoa Lạc, không ngờ chính là Mai Hoa Lạc cầm!



Đúng như lời Vương Thắng nói, Mai Hoa Lạc Cầm được chế tạo vào năm đầu Võ Đức Đại Đường. Hắn bước lên nhìn tỉ mỉ, góc trái mặt bắc trong Long Trì phát hiện có mười chữ “Đại Đường Vũ Đức nguyên niên tuế thứ mậu dần”. Bề mặt cầm được quét sơn màu đỏ vàng, đường vân như bụng rắn, làm bằng gỗ lim, hiện lên hình ngôi sao năm cánh, bên cạnh điêu khắc thành hình bánh răng, hoa văn tinh tế tỉ mỉ. Ẩn giữa ước 110cm, rộng 19cm, đuôi khoảng 13cm, chếch lên dày 6cm.



Quả nhiên là Mai Hoa Lạc!



Ánh mắt Ngọc Doãn hơi ẩm ướt.



Lúc này đàn cổ này không gọi là “Mai Hoa Lạc”. Khoảng tám trăm năm nữa tức là năm 1962 Công Nguyên, đàn này sẽ rơi vào tay một cầm gia có tên là Thẩm Thảo Nông, rồi sau đó mới có tên là “Mai Hoa Cầm”. Đời trước, Ngọc Doãn từng theo cha đi thăm quan cây đàn cổ này. Sau đó cha hắn mua được một cây đàn được chế tác theo Mai Hoa Lạc Cầm, và đó cũng là cây cầm đầu tiên mà Ngọc Doãn học đàn.



Thật không ngờ...



Ngọc Doãn hít sâu một hơi, đột nhiên xoay người nói với Vương Thắng:



- Nếu đã vậy, Tiểu Ất tỷ thí với ngươi một trận.