Trăng Sáng Cố Hương

Chương 5 : Địch ta

Ngày đăng: 22:41 21/04/20


Type: bjh



Ba năm sau.



Mười tư tháng Tám, trăng như một chiếc mâm ngọc. Trong thành Dung An vô cùng náo nhiệt, khắp phố phường treo đủ các loại hoa đăng, tỏa ánh sáng ấm áp. Ngày mai đã là đêm Trung thu rồi, các quán hàng trong thành đều nhân cơ hội này, chăng đèn kết hoa để chào mời khách. Son phấn sáp hương, vòng ngọc trâm bạc, quạt giấy thư họa, trà cụ đồ sứ, trước mắt đều không có gì bán chạy bằng những chiếc bánh trung thu vừa thơm vừa ngọt. Miếng bánh vừa giòn vừa quện, vị ngọt lịm, lại chứa đựng những lời chúc phúc cát tường, đoàn viên mỹ mãn, là thứ được ưa chuộng dễ thấy nhất trong chợ đêm này.



Trên đường phố phồn tráng lệ, ngựa xe rầm rập, người đi lại như mắc cửi, trong đám đông ồn ào náo nhiệt, nghe thấy không ít những tiếng rao hàng, những lời hỏi giá, mặc cả. Chỉ thấy dưới những mái hiên bên đường, treo một dãy đèn hoa đăng đỏ rực, những chiếc đèn hình cá chép càng hiếm càng đẹp. Ánh lửa vàng ấm áp, soi sáng những gương mặt tươi cười của mọi người trên đường phố, cũng soi sáng quầy hàng bán quạt giấy bên dưới đèn. Chủ hàng tuổi còn rất trẻ, chỉ ước khoảng đôi mươi, mình mặc bộ trường sam màu xanh, theo lối thư sinh. Nếu không phải anh ta cài chiếc quạt ra sau cổ áo, trông có vẻ hơi ngang tàng, thì đó quả là một thư sinh khôi ngô mi thanh mục tú. Anh ta nheo mắt, ngồi thong dong trên chiếc ghế nhỏ bên quầy hàng, cũng không rao mời ồn ã. Thỉnh thoảng có mĩ nhân nào áo thơm vòng ngọc đi qua, thư sinh ấy mới vội vàng lấy lại tinh thần, đứng lên cười nói với cô nương ấy:



“Tiểu thư, quạt lụa, quạt tròn, quạt cung đình loại thượng hạng đây, xin mời xem hàng!”



Có thể do anh ta có nụ cười nịnh nọt quá, nên những nữ nhân được chào mời đến đáp lời cũng chẳng dám, vội vàng lánh đi luôn. Thư sinh ấy cũng không lấy thế làm tiếc, vẫn cười cười, rồi lại ngồi xuống ghế, duỗi dài hai chân, lấy cây quạt trên cổ áo xuống đủng đỉnh phe phẩy.



Đúng lúc ấy, trong màn đêm tĩnh lặng, có ba chiếc đèn trời bay lên. Hai chiếc trắng tinh, một chiếc ngang lưng có ngấn mực, lờ mờ có thể đọc được ra là chữ “Thiên”. Trông thấy mấy chiếc đèn đó, thư sinh lập tức đứng dậy, giở ra một tấm khăn vuông, gói qua loa tất cả quạt trên quầy hàng lại, rồi quay người đếm từ dưới lên trên dây đèn cá chép, đến ngọn thứ ba thì thổi tắt. Sau đó, anh ta khoác tay nải, đi nhanh về phía đông thành, đầu không ngoái lại, nháy mắt đã mất dạng giữa dòng người cuồn cuộn.



Phía đông thành Dung An, có sông Lăng Giang chảy ngang qua. Trong đêm tối mịt mùng, không nhìn thấy nước sông chảy xiết, chỉ nghe tiếng nước nhẹ trầm miên man, tựa như một tiếng xao xác. Mặt nước mênh mông, soi bóng vầng trăng tròn vành vạnh, hơi lay động theo sóng nước dập dềnh. Thư sinh ấy đi đến bên bờ sông, nheo mắt nhìn, thấy xa xa trong màn sương khói mờ mịt trên sông có ánh đèn ẩn hiện. Anh ta lập tức lấy ra một ống pháo sáng từ ngang lưng, đốt rồi phóng lên. Một đốm sáng bung nở trên bầu không, ánh đèn ở giữa sông trong chớp mắt cũng ghé lại gần bờ.



Dưới ánh trăng, trông rõ một hán tử đầu đội nón lá, mình khoác áo tơi đứng dưới ngọn đèn ở mui thuyền. Tay ông ta cầm một cần trúc dài, tựa như chỉ cần đẩy nhẹ một cái là chiếc thuyền mui đã có thể lại gần đến hơn trượng vậy. Thứ sinh lập tức để khí phi thân nhảy lên một bước, lộn hai vòng trên không trung, nhẹ nhàng đáp xuống mạn thuyền.



“Hà lão đại, có chuyện gì mà gọi gấp vậy, đốt liền ba ngọn đèn?” Thư sinh cười nói, cũng không đợi đối phương đáp lời, liền vén rèm, bước vào trong khoang thuyền.



Ở đó lúc này đã có khoảng chục người ngồi chen chúc. Thư sinh đưa mắt quét qua tám hán tử cao lớn, rồi nhìn về phía nữ nhân duy nhất có mặt, nở nụ cười chào hỏi: “Vân Hy muội, lâu lắm không gặp. Đêm thanh gió mát thế này, sao lại không đi thưởng nguyệt, xem hoa đăng?”



Nữ nhân mà thư sinh chào hỏi đang ngồi tựa bên song cửa, nhìn ra bờ sông phía xa xa. Tóc búi cao, ăn vận gọn gàng, chiếc áo ngoài màu thiên thanh làm nổi bật nước da trắng ngần, khiến cô càng toát lên vẻ thanh tân tú lệ. Một cây võ khí dài bọc trong lớp vải màu xám tro, không biết là thương hay côn được đeo trên lưng. Nghe tiếng thư sinh gọi mình, cô thu lại tầm mắt, quay sang anh ta nhoẻn miệng, lịch sự cười nhẹ đáp: “Trương huynh, đã lâu không gặp.”



“Trương huynh gì chứ, nghe khách sáo quá, gọi ta là Văn Thư được rồi, nếu không thì “hảo đại ca” cũng tạm được!” Trương Văn Thư nhân đà được thể, liền sán lại gần.



Anh ta vừa định ghé đến ngồi cạnh Vân Hy thì lập lức bị ai đó túm gáy. Chỉ nghe giọng nói hào sảng cùng tiếng cười lớn: “Trương mọt sách, chớ muốn ăn đòn, lát nữa tiểu tử họ Khương đến, không khéo bị hắn cho trăm chục chiêu đấy!”



Người nói là một đại hán lưng beo mình hổ, ông ta có khuôn mặt chữ điền, mắt to mày rậm, dưới cằm chòm râu xanh tua tủa, lưng đeo cây đại đao rộng bản sáng loáng. Trương Văn Thư cũng không phải thấp, nhưng đứng trước hàn tử to lớn này cũng chỉ như một con gà nhép bị ông ta xách cổ. Thư sinh vội vàng xua xua tay. “Được rồi, được rồi! Đại cô nương, tiểu sinh biết sai rồi, còn không được ư? Có quỷ mới dám đọ chiêu với Khương Hằng, tên ấy chỉ cần thắng không cần mạng, xuất chiêu nào cũng y như liều mạng vậy, có ngốc mới đánh với hắn.”



“Đại cô nương” mà thư sinh ấy nói chính là chỉ vị đại hán kia. Ông ta là người mà trên giang hồ gọi là “Cuồng Đao Khách”, họ Cố, tên chỉ một chữ Lương. Cái tên ấy vốn rất bình thường, nhưng từ khi gia nhập Thương Thiên, gặp phải ‘Điểm Mặc Giang Sơn” Trương Văn Thư, nó liền bị biến điệu đi. Trương Văn Thư rất thích mồm mép, chiếm thế hơn người, liền gọi ngay Cố Lương chệch thành “cô nương”, làm mọi người cũng thi nhau bắt chước, khiến Cố Lương phải tức giận lập tức rút đao, đấu với anh ta. Nhưng đừng tưởng Trương Văn Thư bộ dạng thư sinh đầy bụng chữ nghĩa, đôi phán quan bút ấy mà dùng đến thì chính là thiên hạ vô song. Hai người đấu hơn trăm chiêu vẫn không phân thắng bại, từ đó họ không đánh thì không quen biết, trở thành đối thủ cứ dăm bữa nửa tháng lại gây sự với nhau.



Trong lúc mọi người trò chuyện, rấm rèm trước khoang thuyền lại được vén lên, Hà Nhân và một chàng trai trẻ bước vào. Chàng trai đó diện mạo tuấn tú, dáng cao gầy, lưng đeo cây trường kích đen bóng loáng. Y tuy mặc áo vải bình thường nhưng sống lưng thẳng tắp, lộ rõ khí chất con nhà võ, lại thêm ngũ quan sáng sủa, ánh mắt có thần, trông tựa như một chiến thần đã kinh qua nhiều trận mạc. Chỉ đáng tiếc là y đã bị mất cánh tay phải, giờ thế vào chỗ đó là chiếc thiết trảo màu trắng bạc.



“Hằng ca!” Mắt Tùy Vân Hy chợt sáng lên, cất tiếng gọi. Khương Hằng gật đầu, không nói gì, coi như đã chào hỏi.



Sau khi Hà Nhân và Phương Hằng vào rồi, cuộc họp kín trên thuyền chính thức bắt đầu. Hà Nhân bỏ chiếc nón lá che kín quá nửa mặt mình ra, ánh mắt sắc lẹm quét nhìn một lượt mọi người, trầm giọng nói: ”Chư vị, những câu khách sáo ta không nói nhiều, hôm trước ở huyện Bình Dao xảy ra vụ án mạng, cả nhà huyện lệnh Bình Dao trên dưới hai mươi mốt mạng người đều bị giết sạch…”



Nghe thấy hai tiếng “Bình Dao”, bàn tay đang đặt trên đầu gối của Tùy Vân Hy dần dần thu lại thành nắm đấm. Tùy gia thương ở trên núi Kỳ Sơn chính là nơi ngoại ô lân cận của Bình Dao. Mười một năm trước, chính quan huyện Bình Dao khi ấy là Tôn Bồi Nguyên đã dẫn Thống lĩnh cấm vệ quân Triệu Hãn lên Kỳ Sơn tuyên đọc Thái Bình Ước, mở ra giang hồ huyết lộ cho cô và Khương Hằng…



Trong lúc Tùy Vân Hy đang nghĩ lại chuyện xưa, cô chợt thấy vai mình bị đè nặng, không biết Hằng ca đã ngồi cạnh từ lúc nào, đang đặt bàn tay ấm áp lên vai cô. Nhận ra đó là hành động an ủi của Khương Hằng, Vân Hy ngước mắt quay sang nhìn y khẽ mỉm cười, tỏ ý rằng mình không sao.



Chỉ nghe Hà Nhân tiếp tục nói: “…Quan pháp y đã kiểm tra qua thi thể, tất cả xác chết đều có sắc mặt hồng thuận, lộ vẻ hơi cười, thần sắc an lành, tựa như bị chết trong khi đang ngủ vậy…”



“Thần Túy Mộng Mê!” Một vị trưởng giả tóc hai bên mái đã đốm bạc, tay cầm tẩu thuốc kinh hãi nói. Ông ta tuổi đã quá lục tuần, họ Âu Dương, tên Tiên. Trong Thương Thiên, ông ta tuy võ công bình thường, nhưng lại là chuyên gia về lý luận, nắm rất rõ các phương pháp và chiêu thức võ học của các môn phái. Biệt hiệu “Võ Si” và “Học Cứu” cũng từ đó mà có.



“Lão Học Cứu, cái gọi “Thần Túy Mộng Mê” này là thứ gì vậy, chớ có úp úp mở mở nữa!” Cố Lương tính khí nóng nảy, lập tức hỏi to.



Âu Dương Tiên lấy ra từ trong tay nải mang theo một cuốn sách, lật giở hồi lâu, rồi mới chỉ vào hàng chữ nói: “Lão phu quả nhiên không nhớ nhầm, cách làm chết người ấy không khác chút nào so với Thần Túy Mộng Mê – độc dược hạng nhất của “ Dược Vương” Lạc Dương. Giang hồ đồn đại, người vợ đã mất của Lạc Dương từng mắc một căn bệnh rất khổ sở, trong khi Lạc Dương thân là Dược Vương, đã cứu được tính mạng bao nhiêu người, vậy mà không cứu nổi ái thê của mình. Ông ta không đành lòng nhìn thê tử bị bệnh tật dày vò, sống chẳng bằng chết, bèn nghiên cứu chế ra một loại độc dược gọi là Thần Tùy Mộng Mê, có thể khiến người ta an nhiên từ giã cõi đời trong cơn hôn mê. Chỉ là...”



Nói đến đây, Võ Si Âu Dương Tiên vuốt râu thở dài, lại nói: “Dược Vương hành tẩu giang hồ mấy chục năm, trước sau vẫn giữ ý “đại ẩn ẩn thành thị”, rất ít khi tham gia vào việc tranh giành trên giang hồ. Mấy năm nay, Thái Bình Ước làm cho giang hồ cuộn sôi sùng sục, Lạc Dương càng cho bang phái tản đi, dẫn theo người nhà ẩn cư sơn dã, làm sao lại đột nhiên nhúng tay vào vụ án lớn này?”



“Lẽ nào Lạc lão đầu có thù oán với viên huyện lệnh kia?” Cố Lương phỏng đoán. “Hơ hơ, lẽ nào tên quan đen đủi ấy đã bắt trộm vợ của ông ta, nên ông ta mới tức giận cho cả nhà hắn phải chết...”



“Đừng nói bậy!” Trương Văn Thư cắt ngang lời Cố Lương, chỉ trích: “Ngươi thật đầu to mà không có não, nếu thực sự có oán thù, thì với năng lực của Dược Vương, lại há có thể cho nhà kẻ thù chết một cách dễ dàng thanh thản như thế ư?”



Khương Hằng trước sau vẫn im lặng, lúc này mới chậm rãi lên tiếng: “Đúng là vu oan giá họa. Trương huynh nói rất có lý, nếu như Dược Vương có ý báo thù, phần nhiều sẽ chọn cách khiến nhà kẻ thù phải muốn sống không được, muốn chết chẳng xong. Còn Thuần Túy Mộng Mê là thứ độc dược thiên hạ vô song của Lạc gia. Hung thủ giết cả nhà quan huyện đã cố ý để lại manh mối rõ ràng như vậy, không còn nghi ngờ gì, chính là muốn hướng quan binh và Thái Bình minh nhắm tới Dược Vương. Lần này, lại có thêm một gia môn bị coi là tà ma ngoại đạo không thể không tiễu trừ rồi.”



Hà Nhân gật đầu nói: “Khương lão đệ nói không sai. Dược Vương Lạc Dương sau khi nghe được chuyện này cũng đã kêu lên rằng có kẻ vu hãm. Trước mắt, triều đình đang liên thủ với Thái Bình minh lùng bắt cả nhà ông ta, ông ta biết rõ khó tránh khỏi tội vạ, bèn cầu cứu Thương Thiên chúng ta giúp đỡ.”



“Vậy còn chờ gì nữa! Chúng ta hãy xuất phát luôn, giúp họ một tay!” Cố Lương đấm mạnh xuống bàn, làm ly trà nảy lên tới hơn tấc, rồi lại rơi mạnh xuống.



“Người tất phải cứu không nghi ngờ gì, chỉ là hung thủ thực sự hạ độc vu hãm, cũng phải điều tra đến cùng.” Hà Nhân liếc nhìn Sái Tiểu Xà vẫn im lặng bấy giờ, hỏi: “Chuyện lạ kiểu này, trên giang hồ cũng không phải là lần đầu mới có. Chín năm trước, hai mươi tư hộ dân ở phía bắc Xương Tần trấn, tất cả đều chết vì nọc độc rắn, dân chúng phần lớn đều cho rằng là do nạn rắn, nhưng Thái Bình minh lại chĩa mũi dùi về phía Tiểu Xà, quan phủ cũng phát lệnh truy nã, muốn bắt Tiểu Xà đền mạng…”



Nghe vậy, mọi người đều dồn ánh mắt về phía Tiểu Xà, chỉ thấy ông ta mắt vẫn không đổi sắc, tựa như không nghe thấy những lời Hà Nhân nói, chăm chú đùa nghịch với con rắn cạp nong trong tay, để nó bò trườn quanh cổ.



Hà Nhân nói tiếp: “Lại còn hai mươi năm trước, một trăm năm mươi ba người trong ấp nọ bị giết thê thảm, những vết thương trên người đều là do thất hoàn luân gây ra. Khi đó trong võ lâm duy chỉ Hàn Hải bang sử dụng loại binh khí này, mà mới dùng ba ngày, liền bị Thái Bình minh diệt sạch…”



Trương Văn Thư đập “phạch” cán quạt vào lòng bàn tay, nói: “Hà lão đại, ý của ông là, những vụ án đó đều do ai đó dựng lên nhằm mượn đao giết người, mượn tay Thái Bình minh trừ bỏ những bang phái và dị nhân ấy?”



“Có phải là mượn đao giết người hay không, cũng còn chưa biết.” Khương Hằng sắc mặt trầm lặng, lạnh lùng nói chen vào. “ Những vụ án này nếu như tách lẻ ra mà xem xét, thì tựa như những kẻ thù của bang phái nhân thời cuộc rối ren, cố ý dựng kịch giá họa, mượn đao giết người để trừ cừu địch. Nhưng nhìn tổng thể lại thấy điểm chung giữa các vụ án này đều có kết cục bị Thái Bình minh trảm yêu trừ ma tiêu diệt. Kẻ giấu mặt sau chuyện này có thể chỉ là một người, cũng có thể là một hay vài tổ chức…”



“Cậu có ý gì? Tổ chức nào muốn hại những người như Tiểu Xà?” Cố Lương vẫn chưa nghĩ ra, chau mày nói. “Hơn nữa, Tiểu Xà và bọn Dược Vương, Hàn Hải bang không hề có quan hệ gì với nhau!”



“Sai rồi, có quan hệ.” Khương Hằng trầm giọng nói. “Bất luận là Sái Tiêu Xà hay Hàn Hải bang, hoặc Dược Vương Lạc Dương, bọn họ đều chưa từng kí kết Thái Bình Ước.”



Trương Văn Thư bỗng nhiên ngộ ra, nói: “Khương huynh, ý huynh là kẻ giấu mặt đứng sau chuyện này cố ý vu oan giá họa, đem những người như Sái Tiêu Xà bức vào tà phái? Cũng phải, trước mắt giang hồ rối loạn, thế lực của Thái Bình minh càng ngày càng lớn, đã tiêu diệt mấy môn phái tà đạo rồi, những hắc phái còn lại, nếu không đưa ra vài con dê tế thần thế mạng cho mình thì tất yếu sẽ chết nhanh hơn!”



Mọi người ai nấy đều gật gù, cùng nói: “Có lý!” Chỉ có Khương Hằng chậm rãi bảo: “Các vị còn quên một khả năng nữa. “Là gì? Trừ tà đạo hắc phái ra, còn ai muốn tàn hại võ lâm đồng đạo?”




Nhớ khi còn nhỏ, lần đầu tiên nhìn thấy khuôn mặt của chú câm, một khuôn mặt đầy vết dao, trắng đỏ loang lổ, bộ dạng vô cùng dữ tợn, Vân Hy đã khóc thét lên. Nhưng rồi, chính thúc thúc đeo mặt nạ quỷ ấy lại ân cần bón thuốc cho cô, sợ cô ngại thuốc đắng còn vội vàng chạy đi mua kẹo hồ lô về, và khi cô cùng Khương Hằng định ra đi, ông ta lại lo lắng không yên đi đi lại lại trong phòng, kêu “a, a” như thể cầu xin… Bây giờ nghĩ lại, Tôn Bối Nguyên đã có tâm tình như thế nào, khi nhìn thấy Kỳ Sơn bị diệt môn, và quỳ trước Triệu Hãn xin hắn ta hạ thủ lưu tình? Ông ta đã mang niềm hối hận thế nào, đến nỗi bỏ quan mà đi, vung đao tự hủy dung mạo, chỉ để chăm sóc cho hai đứa trẻ không nơi nương tựa bọn họ? Ông ta đã mang nỗi bi ai như thế nào, khi nuôi dạy hai kẻ có mối thù diệt môn với ông ta, lặng lẽ dõi theo bọn chúng lớn lên?



“Hằng ca!” Vân Hy nhìn chàng trai ngồi cạnh mình, nói gần như cầu xin. “Xin huynh hãy tha thứ cho ông ấy, cũng chính là tha thứ cho chính huynh! Ông ấy dưỡng dục chúng ta, hoàn toàn không phải là lo lắng trong lòng, nhát gan sợ chết. Và trên đời này, cũng không phải chỉ có những kẻ ác nhân không từ thủ đoạn. Hà đại ca dốc hết võ nghệ ra để dạy cho huynh, lẽ nào lại không tốt với huynh ư? Âu Dương bá bá coi huynh như tri kỷ vong niên, đem tri thức võ học tích lũy được trong mấy mươi năm ra truyền cho huynh, lẽ nào lại không tốt với huynh ư? Mấy vị đại ca Cố Lương, Sái Tiêu Xà, Trương Văn Thư đã quen biết chúng ta hơn ba năm, mỗi khi có công việc của Thương Thiên, chẳng khi nào không sát cánh bên nhau, chúng ta cùng nhau chống lại kẻ địch, giúp đỡ nương tựa lẫn nhau, có thể nói là “cùng chung sống chết” cũng không phải quá lời. Huynh vì sao vẫn không thể mở lòng, dù là chút ít, coi họ như những người bạn bè thân tín, như người thân có thể trông cậy của mình?”



“Trên đời này, người ta tin cậy chỉ có muội mà thôi.” Khương Hằng điềm tĩnh đáp. Y không nhìn Vân Hy, chỉ phóng tầm mắt ra màn đêm ảm đạm xa xa trước mắt, đôi mắt đen càng lộ rõ vẻ sâu xa. Ánh trăng soi lên khuôn mặt kiên nghị của Khương Hằng, cũng rọi lên bộ thiết trảo trên tay phải y, tỏa ra thứ ánh sáng lạnh ngắt.



“Còn nữa, ta vừa nói rồi, chuyện Tôn Bồi Nguyên, không cho phép muội nhắc đến nữa.” Giọng nói lạnh lùng, giọng điệu ra lệnh, khiến Vân Hy thấy buồn lòng. Thở dài lặng lẽ, cô biết rằng mình chẳng thể khuyên nổi y, nên cũng không nhiều lời nữa, chỉ lặng im nhìn khu nhà hoang lặng. Người thiếu niên kiêu ngạo đắc ý luôn cười ranh mãnh, mắng cô là “nha đầu ngốc” ấy, đã bị chôn vùi dưới tuyết lạnh Kỳ Sơn cùng với bàn tay máu đỏ đầm đìa kia, không thể tìm lại được nữa.



Vân Hy chỉ cho là Khương Hằng chưa cởi bỏ được lớp hiềm khích trong lòng, chứ biết đâu chú câm mà cô nói tới đã chết dưới mũi thương bạc của Khương Hằng từ lâu, còn căn nhà mà hai người từng cư ngụ tám năm, cũng đã trở thành tro bụi trong biển lửa. Khương Hằng hiểu rất rõ, nếu như Vân Hy biết được chuyện này, tất trong lòng sẽ không chịu nổi, đồng thời sẽ nảy sinh sự xa cách với mình, vì vậy y mới lớn tiếng gạt đi, tuyệt không muốn nhắc tới chuyện ông ta nữa.



Trong lúc hai người ai nấy đuổi theo dòng tâm tư của mình, lặng im không nói, thì ở lưng chừng núi Kỳ Sơn bỗng nhiên lóe lên một chùm sáng xanh loang loáng, khi sáng khi tối.



Hai người quay nhìn nhau, lập tức tung mình nhảy xuống, lặng lẽ chạy tới nơi phát ra luồng sáng như ma trơi ấy.



Lớp thực bì trên Kỳ Sơn rất phong phú, lại thêm chục năm trời không có người cư ngụ, bậc đá lên núi đã bị phá hoại rất nhiều. May mắn là hai người thân pháp đều không phải tầm thường, nên mới có thể chạy xuyên qua rừng rậm mãi được. Ước chừng chạy hết ba tuần nhang, hai người cuối cùng đã nhìn thấy ánh sáng xanh chập chờn ấy giữa rừng cây rậm rạp.



Những ánh lân tinh âm u, bay la đà trong rừng. Giữa nơi núi rừng tăm tối ấy, vẻ cổ quái kỳ dị không thể nói hết được. Hai người im lặng đứng sát gần nhau, chỉ thấy có hai kẻ áp đen đang khiêng một đống xác chết đi vào một hang động.



Hang động ấy cực kỳ bí mật, bốn xung quanh cây cao chót vót, dây leo chằng chịt, che kín lối vào cửa động. Nếu không phải chính mắt nhìn thấy có người đi vào, thì họ không thể nào nghĩ rằng chỗ đó lại có một lối vào. Thấy ánh ma trơi cùng với người áo đen đã khuất vào trong động, Khương Hằng vừa định tiến lên, chợt nghe thấy trên đầu mấy tiếng vu vu, tựa như tiếng côn trùng kêu.



Hai người nhìn chỗ phát ra tiếng động, thấy trên ngọn cây thấp thoáng một bóng đen đang ngồi. người đó nhẹ nhàng đáp xuống đất, liền mở “soạt” cây quạt giấy, nháy mắt với họ - đó chính là Trương Văn Thư.



“Giỏi lắm, hai người cũng đã đến rồi.” Trương Văn Thư cười hì hì, nói. “Vân Hy muội quả nhiên liệu sự như thần, nếu chẳng phải muội nói là đến Kỳ Sơn, thì chúng ta làm sao phát hiện ra bí mật kinh thiên động địa này!”



Không để ý đến câu nói nịnh của Trương Văn Thư, Vân Hy nghi hoặc hỏi: “Bí mật gì?”



“Bí mật giấu người ở Kỳ Sơn.” Trương Văn Thư hơi cười, lại nói. “Vừa nãy, ta biết hai người nhất định có nhiều chuyện cũ muốn ôn lại, một người ồn ào như ta tất nhiên không thể làm phiền hai người. Vì vậy, ta rảnh rỗi vô sự, mới đi loanh quanh dưới chân núi, đợi hai người xuống. Cuối cùng, hai người có đoán ra là ta nhìn thấy gì không?”



Anh ta cố ý ngưng lại một lúc, đợi có người giục giã. Nhưng không ngờ Khương Hằng và Vân Hy đều không nói gì, Trương Văn Thư tẽn tò đằng hắng một tiếng, rồi nói tiếp: “Ta trông thấy có người khiêng bốn cái xác lên núi, chính là hai tên đối thủ áo đen của chúng ta khi nãy, một tên giả gái, và tên người làm công của nhà huyện lệnh đã chết từ trước nữa.”



“Ồ!”Khương Hằng nhướn mày. “Huynh có nhìn thấy những kẻ chuyển xác ấy trông như thế nào không?”



Trương Văn Thư phe phẩy quạt, cười nói: “Một người thông minh như ta tất nhiên là phải thấy rõ mồn một rồi! Có sáu kẻ khiêng xác tất cả, trừ hai tên áo đen ra, còn lại tất cả đều là dân chúng trong thành.”



Lời vừa dứt, hai người Khương Hằng và Vân Hy đều vô cùng kinh ngạc: Dân thường trong huyện sao lại đem khiêng thi thể người chết lên Kỳ Sơn giữa lúc nửa đêm gà gáy thế này?”



Hai người lập tức đưa ánh mắt cùng nhìn vào lối cửa động tối đen: Tất cả đáp án bí mật, chính là ở nơi này.



Việc liên quan đến Kỳ Sơn, tất nhiên Khương Hằng và Vân Hy muốn điều tra rõ ràng. Trương Văn Thư lại là người hiếu kỳ hơn. Ý tứ của ba người cùng giống nhau, bèn quyết định vào động xem xét.



Khương Hằng võ công cao nhất, đi trước mở lối, Vân Hy đi giữa, Trương Văn Thư đi chặn hậu. Gạt hết lớp lớp dây leo, chỉ thấy hang động tối tăm u ám. Khương Hằng dẫn đầu tiến vào trong, ghé tai lắng nghe, xác định tiếng bước chân phía trước đã dần xa, rồi không còn nghe thấy nữa, khi ấy mới gọi hai người đi theo vào.



Trong động vô cùng nhỏ hẹp, chỉ có thể từng người một đi qua, dưới chân đá vụn tạp loạn, nhũ đá nhô cao, vách đá lốm đốm thô ráp, đá tảng lồi lõm gồ ghề, tựa như hang động tự nhiên. Nhưng, khi ba người đi được vài trượng thì mặt đất đã dần bằng phẳng, vách đá cũng ngày càng nhẵn nhụi. Lại đi thêm mấy thước nữa, bốn vách xung quanh còn được ghép bằng đá xanh ngay ngắn, trông như một hầm mộ.



Trong đường hầm tối tăm âm u ấy, im ắng không một tiếng động, ba người chỉ nghe thấy tiếng thở của nhau. Hầm quanh co hướng xuống sâu hơn, như tách rời giữa trần gian và âm phủ, càng tiến về phía trước, càng cảm thấy toàn thân ớn lạnh.



“Vừa thấy ma trơi, vừa thấy xác chết, lẽ nào đây là một ngôi mộ?” Trương Văn Thư càng nghĩ càng lấy làm lạ, anh ta đốt đuốc, mượn ánh lửa quan sát bốn xung quanh, chỉ thấy lòng hang phía trước còn dài hun hút, không nhìn hết được, toàn bộ một màu tối thui, muôn vàn sự vật đều bị đêm đen bao phủ.



Đôi mày kiếm của Khương Hằng nhíu lại, y cầm trường kích huyền thiết, đưa cán giộng nhè nhẹ xuống mặt đất. Đá vá sắt chạm nhau, phát ra những tiếng âm thanh trầm đục, y nhăn mày, quay lại trầm giọng dặn dò Vân Hy đi phía sau: “Muội cẩn thận.”



Lời còn chưa dứt, bỗng nhiên một khối đá xanh lát đường sụt mạnh xuống! Đồng thời, từ trên tường đoản tiễn từ đâu bắn ra như mưa, hết lượt này đến lượt khác, càng lúc càng nhanh hơn!



Thấy cơn mưa tên xối xuống đầu, không chừng sẽ biến mình thành một con nhím, Khương Hằng kêu to một tiếng, lùi nhanh lại một bước, vung kích gạt loạt mưa tên đầu tiên, đồng thời đấm mạnh cây trường kích xuyên qua khối đá lát khi ấy, chỉnh nó chỉnh lại vị trí ban đầu. Lập tức cơn mưa tên dừng lại, vách hang lại trở lại như bình thường, nếu không phải có cơn mưa tên rối bời khi nãy, thì ai có thể ngờ rằng trên tường lại giấu sẵn thứ chết người ấy?



“Hằng ca!” Vân Hy gọi nhỏ, “Huynh hãy đợi một chút, để muội xem xem.”



Nói rồi, Vân Hy mượn cây đuốc trên tay Trương Văn Thư, soi kỹ bốn vách tường. Không bao lâu, cô đứng thẳng người, nói: “Chỗ này có rất nhiều cạm bẫy, nếu cứ tự tiện đi vào, chỉ khiến chúng ta thêm thương vọng thôi. Nhưng, may là khi nãy có những thi thể được đưa qua rồi, nó sẽ chỉ đường cho chúng ta…”



“Ối chà, thi thể ấy làm sao có thể chỉ đường được?” Trương Văn Thư kinh ngạc, anh ta lập tức chen lên trước, định tìm kiếm dấu vết trên mặt đất.



“Trương huynh, xem này!” Vân Hy đưa tay chỉ những viên gạch xanh trên mặt đất, trông tựa như bình thương không có gì lạ, nhưng nhìn kỹ thì thấy lớp bụi trên đó dày mỏng khác nhau. “Đường đá này thông với bên ngoài, khó tránh được có lớp bụi phủ. Mà huynh vừa nói rồi có người ra vào, nhưng không hề thấy có dấu chân nào, chắc chắn bọn chúng đã cố ý che giấu. Nhưng, ở đây có hai vệt mờ dài, chắc so chúng bất cẩn để hai chân của thi thể chạm đất, kéo lê thành vệt.”



Vân Hy lại ngẩng lên nhìn Khương Hằng nói tiếp: “Hằng ca, chúng ta hãy thuận theo lối hai vệt này đi qua, chắc có thể tránh được các bẫy ám khí.”



Khương Hằng khẽ gật đầu, chưa nói gì, đã thấy Trương Văn Thư vỗ tay cười nói: “Vân Hy muội quả nhiên thông minh nhanh trí, quan sát tinh tường tuyệt vời.”



Khóe mắt Khương Hằng hơi động, y cầm lấy cây đuốc trong tay Vân Hy, tiếp tục dẫn đầu, đồng thời luôn chú ý dưới chân mình, theo dấu vết bị kéo lê ấy mà đi. Còn Vân Hy và Trương Văn Thư thì theo sát sau Khương Hằng, theo chỗ Khương Hằng đặt chân mà bước. Nhưng dù như vậy, vẫn thi thoảng có chuyện ngoài ý muốn xảy ra…



Khi thì dao găm phóng ra rất nhanh, khi thì tên mưa bay như xối, lúc thì chân vừa đặt xuống, gạch lát liền bị hụt, khiến người ta thiếu chút nữa là rơi xuống vức sâu đen hun hút. Đi trên con đường ấy, mỗi bước là một nỗi kinh hoàng, may mắn là võ công của họ không tồi, thân pháp càng không bình thường, nên mới có thể biến hung hóa cát, chuyển nguy thành an.



Cuối cùng cũng đi qua con đường lát đá phiến xanh, chỉ thấy trước mặt là một cửa đá hai cánh dày nặng. Trên đá vẽ hình hoa văn mây lửa và trường kiếm, những đường vân trên cây kiếm y hệt như cây Xung Tiêu kiếm mà Vân Hy đã nhìn thấy trong tay Hạ Thiên Thu trước đây.



Trong lòng Vân Hy càng thêm nghi hoặc, lại nhớ đến chiêu kiếm Thập Phương Ảo Ảnh của tên giả gái ở huyện Bình Phước khi trước, cô lập tức thấy hơi dao động: Nếu như hàng loạt những chuyện kỳ lạ này đúng là có liên quan đến Vân Tiêu cổ lâu thì biết làm thế nào? Vân Tiêu cổ lâu ngầm lập động phủ này ở Kỳ Sơn, rốt cuộc là có dụng ý gì? Chuyện này Hạ đại ca có biết không? Hằng ca vừa nãy giết đệ tử của người ta, nếu như họ có ở đây, hà lại không xảy ra giao chiến với nhau ư?...



Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra, Vân Hy chợt sơ ý, bước chân cũng hơi ngập ngừng. Đúng lúc ấy, bỗng nhiên một khối đá lớn ngàn cân từ trên đỉnh động rơi ầm xuống, làm cho Vân Hy tập trung trở lại.



“Cẩn thận!”