Truy Tìm Bức Tranh Thánh

Chương 16 :

Ngày đăng: 15:14 19/04/20


Adam nằm sấp trên đáy chiếc xà lan rỗng, đầu tựa về một bên. Anh luôn cảnh giác lắng nghe từng tiếng động lạ nhỏ nhất.



Người lái xà lan đứng sau tay lái đếm đủ ba trăm francs Thụy Sĩ đến lần thứ hai. Số tiền đó nhiều hơn số anh ta hy vọng kiếm được trong một tháng. Một người phụ nữ nhón chân vui sướng nhìn những tờ ngân phiếu qua vai anh ta.



Chiếc sà lan chạy xuôi dòng kênh với tốc độ đều đặn và Adam không thể nhìn thấy chiếc máy bay gãy vụn nữa.



Đột nhiên từ tít xa anh linh cảm thấy như vang lên một tiếng động giống tiếng súng nổ. Thậm chí trong khi anh căng tai lắng nghe người phụ nữ cũng chúi xuống như một con chuột đang sợ hãi. Chiếc xà lan vẫn chậm rãi rẽ nước trong đêm, Adam lo âu lắng nghe xem có thấy một âm thanh không bình thường nào không. Nhưng anh chỉ nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ vào thành tàu. Đám mây lớn đã tan, vầng trăng tròn vành vạnh lại tỏa ra sáng ngời ngời trên cả dòng sông. Nhìn hai bên bờ, Adam dễ dàng nhận thấy là chiếc xà làn không đi nhanh lắm. Thậm chí anh còn có thể chạy nhanh hơn thế này. Nhưng dầu cho chuyến đi này ngốn nốt số tiền còn lại anh vẫn sung sướng vì có thể thoát được. Adam lại nằm bẹp xuống và cuộn tròn dưới mũi thuyền. Anh sờ vào bức tranh Thánh, kể từ lúc phát hiện ra bí mật giấu bên trong bức tranh, cứ mỗi phút anh lại làm như vậy. Suốt nửa giờ liền anh không hề động đậy, tuy nhiên vẫn biết rằng chiếc xà làn khó mà đi xa hơn được năm dặm.



Mặc dầu mọi thứ xung quanh hiện ra thật huyền ảo Adam vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Lúc này con sông đã mở rộng ra hơn nhiều.



Người lái xà lan luôn để mắt đến anh. Ông ta đứng, tay nắm chặt tay lái. Khuôn mặt lấm lem dầu mỡ không sạch hơn chiếc áo lao động trên người là mấy - dường như những vết dầu mỡ sẽ chẳng bao giờ sạch nổi. Thỉnh thoảng ông ta cũng rời tay khỏi tay lái nhưng chỉ để lấy chiếc tẩu ra khỏi miệng, ho, khạc, nhổ rồi lại ngậm lại cái tẩu.



Ông mỉm cười buông cả hai tay ra khỏi tay lái và ôm lấy hai bên đầu ra hiệu Adam nên ngủ đi. Nhưng Adam lắc đầu, nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm và anh muốn rời khỏi chiếc xà lan trước khi trời sáng.



Anh đứng dậy, vươn vai và hơi loạng choạng. Vai đã đỡ hơn nhiều, mặc dầu vậy vẫn luôn đau nhói. Anh bước đến giữa xà lan và đứng cạnh tay lái chỉ xuống nước hỏi:



-La Seine? Sông Xen à?



Người lái tàu lắc đầu lầu bầu:



-Không. Kênh Bourgone.



Adam lại chỉ về phía trước:



-Quelle ville? Thành phố nào đấy?



Người lái tàu bỏ cái tẩu thuốc ra nói:



-Ville? Ce nest pas une ville. Cest Sombernom. Đấy không phải là thành phố, đấy là Sombernom.



Nói rồi ông ta lại nhét chiếc tẩu vào giữa hai hàm răng.



Adam quay lại chỗ của mình ở mũi tàu, loay hoay cố tìm một tư thế dễ chịu để có thể nghỉ ngơi một lát. Cuối cùng anh dựa mình vào mạn tàu, gục đầu lên một cuộn chão cũ và cho phép mình nhắm mắt.



Sir Morris nói:



-Anh biết Scott rõ hơn tất cả chúng tôi, vậy mà anh không hề cảm thấy anh ta đang ở đâu hoặc sắp tới đây sẽ làm gì,đúng không?



Lawrence thừa nhận:


Adam gật đầu nhưng vẫn đứng trong khi ông chủ đi ra. Nhưng bác nông dân vẫy tay ra hiệu:



-Mangez. (Ăn đi)



Ăn xong miếng cuối cùng Adam còn vét thật sạch đĩa rồi mới đưa cho chị vợ. Lúc này chị đang bận rộn cầm cái ấm trên lò ra rót cho anh một tách cà phê nóng bỏng. Anh ngồi xuống và bắt đầu nhấm nháp.



Một cách gần như máy móc, Adam đập đập vào túi áo để chắc chắn là bức tranh Thánh vẫn nằm yên chỗ cũ. Anh rút bức tranh ra và ngắm nghía Thánh George và Con Rồng. Anh lật nó ra sau, lưỡng lự một lúc rồi ấn vào vành vương miện bạc phía sau. Bức tranh tách đôi như một cuốn sách mở, để lộ hai vật nhỏ được gắn vào bên trong khung tranh.



Anh liếc nhìn vợ người nông dân, chị đang vò bít tất của anh. Quần đùi đã giặt xong và phơi bên cạch chiếc quần dài trên giá phơi cạnh lò sưởi. Chị lấy chiếc bàn là bên cạnh lò sưởi ra bắt đầu hơ nóng, không hề chú ý đến việc của Adam xem xét bức tranh.



Một lần nữa Adam nhìn vào trong lòng bức tranh Thánh tách đôi trước mặt. Điều thật trớ trêu là người phụ nữ đang là dùm anh chiếc quần dài kia có thể hiểu rõ từng chữ trong tấm giấy da dê này nhưng lại không thể nào nói lại cho anh biết ý nghĩa của nó. Toàn bộ bề mặt trong của bức tranh được phủ một tấm giấy da dê được dán chặt vào khung gỗ và chỏ nhỏ hơn cái khung mỗi chiều không tới một centimet. Adam quay lại để nhìn rõ hơn. Những chữ nguệch ngoạc bằng mực đen dưới tờ giấy và dấu đóng khiến cho tờ giấy có vẻ là một chứng từ pháp lý. Mỗi lần đọc, anh lại hiểu được thêm một tí. Thoạt tiên Adam ngạc nhiên vì văn bản được viết bằng tiếng Pháp nhưng khi đọc đến ngày tháng ghi ở cuối tờ giấy - 20 tháng Sáu năm 1867 - rồi nhớ ra một trong những bào giảng lịch sử quân sự hồi ở Sandhurt rằng sau thời Napoleon khá lâu, hầu hết các văn bản quốc tế đều được viết bằng tiếng Pháp. Adam đọc lại chậm chạp tờ tài liệu một lần nữa.



Vốn tiếng Pháp của anh chỉ đủ cho anh hiểu có vài từđược viết bằng nét chữ rất đẹp. Dưới hàng chữ Hoa Kì là chữ William Seward viết rất to và nguệch ngoạc ngang qua hình một con đại bàng hai đầu. Bên cạnh đó là chữ kí của Edward de Stoeckle bên dưới một hình vương miện giống như chiếc vương miện tinh xảo bằng bạc gắn sau bức tranh. Adam kiểm tra lại một lần nữa. Nhất định đây phải là một thứ văn bản thỏa thuận gì đó được kí kết giữa Nga và Hoa Kì vào năm 1867.



Rồi anh tiếp tục nhìn những từ quen khác có thể cho thấy rõ hơn một chút về thỏa thuận đó. Anh đọc thấy một dòng viết: Sept millions deux cent mille dollars dor (7.2 millions), và ở một dòng khác là: Sept cent douze millions huit cent mille dollars dor (721.8 millions) le 20 Juin 1966.



Anh nhìn lên tấm lịch treo trên tường. Hôm nay là ngày 17 tháng Sáu năm 1966. Nếu tờ giấy này là thật thì chỉ còn ba ngày nữa là tài liệu không có chút giá trị pháp lý nào. Không ngạc nhiên tại sao hai cường quốc mạnh nhất thế giới đều cố hết sức để đoạt bức tranh đó. Adam thầm nghĩ.



Anh đọc lại từng dòng cố tìm thêm có điều gì nữa không, anh đọc lại từng chữ thật chậm.



Anh dừng mặt ở một từ giống nhau trong cả hai thứ tiếng.



Đó là từ duy nhất anh không nói cho Lawrence biết.



Adam tự hỏi không biết bức tranh Thánh này rơi vào tay Georing trong hoàn cảnh nào. Nhất định hắn đã để lại bức tranh cho cha anh mà không hề hay biết - bởi vì nếu biết điều thật sự quan trọng này được giấu trong bức tranh thì hắn có thể mặc cả đổi lấy tự do cho mình với một trong hai bên.



-Voila, voila. (Đây, đây)



Chị vợ bác nông dân giơ tay vẫy và đặt đôi tất, chiếc quần đùi và chiếc quần dài trước mặt anh. Không biết anh đã chìm đắm trong phát hiện tối quan trọng này bao lâu rồi? Chị nhìn xuống bản hợp đồng đặt ngược, mỉm cười. Adam nhanh chóng gấp bức tranh Thánh lại và chăm chú ngắm nghía tác phẩm kì diệu. Khung gỗ được cắt tuyệt khéo, bây giờ anh không thể phát hiện ra chỗ ghép nữa. Anh nhớ lại những lời trong di chúc của cha:



"Nhưng nếu mở phong bì ra mà con tìm thấy một cái gì đó khiến con bị dính dáng đến những chuyện bẩn thỉu thì hãy hủy nó đi đừng chần chừ ". Anh không cần phải nghĩ lại xem cha sẽ phản ứng thế nào nếu gặp trường hợp tương tự. Chị vợ bác nông dân vẫn đang đứng chống nạnh nhìn anh vẻ bối rối.



Adam nhanh chóng bỏ lại bức tranh vào túi áo gió và xỏ chân vào quần dài.



Không biết cảm ơn người phụ nữ nông dân thế nào về lòng mến khách vô tư và hồn hậu của chị, vì thế anh bước lại chạm nhẹ lên vai và hôn lên cả hai má. Chị đỏ bừng mặt và đưa cho anh một cái túi ni lông nhỏ. Anh nhìn vào và thấy có ba quả táo và một miếng pho mát lớn. Chị lấy mép tạp dề chùi một vết nhọ trên mép anh và tiễn anh ra cửa.



Adam cám ơn chị rồi bước ra ngoài vào một thế giới khác hẳn.



PHẦN BA NHà TRẮNG - WASHINGTON DC Ngày 17 tháng 06 năm 1966