Truy Tìm Bức Tranh Thánh

Chương 2 : APPLESHAW, ENGLAND Tháng Sáu, 1966

Ngày đăng: 15:14 19/04/20


"Và cho con trai yêu quý duy nhất của tôi, Đại uý Adam Scott, Huân chương Chiến công, tôi để lại số tiền là năm trăm bảng".



Mặc dù đã đoán trước là số tiền sẽ rất thảm hại, nhưng bất giác Adam vẫn nhổm người lên một tí khi viên luật sư ngước mắt lên qua cặp kính hình bán nguyệt.



Viên luật sư già ngồi sau chiếc bàn rộng thênh thang ngẩng đầu nhìn người thanh niên đẹp trai trước mặt. Adam hồi hộp đặt tay lên mái tóc đen dày, chợt cảm thấy ý thức được cái nhìn chằm chằm của viên luật sư. Một lúc sau ngài Holbrooke lại đưa mắt nhìn xuống tờ giấy.



"Và cho con gái yêu dấu của tôi, Margaret Scott, tôi để lại số tiền bốn trăm bảng".



Adam không thể kìm được khỏi mỉm cười. Thậm chí ngay cả trong những công việc cuối cùng cha anh vẫn là người theo chủ nghĩa Sôvanh



Ngài Holbrooke tiếp tục nói, không hề ái ngại cho cô Scott bất hạnh.



"Và cho Câu lạc bộ Cricket Hampshire, tôi để lại hai lăm bảng, với tư cách là một hội viên suốt đời" - Món đóng góp cuối cùng, Adam thầm nghĩ - "Cho bõ già Contemplibles tôi để lại mười lăm bảng. Và cho nhà thờ Appleshaw Parish, tôi xin để lại mười bảng - Một quan hệ chết chóc, Adam giễu cợt - Cho Wilf Proudfoot, người làm vườn trung thành - mười bảng và cho bà Manx Cox, người quét dọn hàng ngày - năm bảng.



Và cuối cùng, cho Susan người vợ yêu quí của tôi, ngôi nhà và tất cả tài sản còn lại của tôi".



Câu cuối cùng làm Adam bật cười thành tiếng bởi vì anh ngờ là tất cả tài sản của chẳng còn gì, thậm chí nếu người ta có bán công trái của ông cùng với cái Câu lạc bộ đánh gôn thời tiền chiến ấy, tổng số cũng không quá một nghìn bảng.



Nhưng mẹ là con gái của Trung đoàn, và sẽ không bao giờ kêu ca phàn nàn. Nếu Chúa có định ban tặng thánh hiệu để cân xứng với một số Đức giám mục La mã, thì thánh Susan của Appleshaw ắt sẽ sánh vai cùng Mary và Elizabeth. Suốt đời Bố - Adam thường gọi cha theo cách âu yếm ấy - đã đề ra những chuẩn mực đạo đức rất cao cho cả gia đình. Có lẽ chính vì thế mà Adam vẫn ngưỡng mộ cha hơn tất cả mọi người khác trên đời. Đôi khi chính ý nghĩ đó đã khiến ông cảm thấy lạc lõng trong những năm sáu mươi chao đảo này.



Adam bắt đầu cựa quậy liên tục trong ghế, hy vọng mọi việc kết thúc nhanh. Anh cảm thấy càng sớm được rời khỏi căn phòng chật chội, lạnh buốt này bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.



Ông Holbrook một lần nữa ngẩng lên và hắng giọng tựa như sắp sửa thông báo ai sẽ được nhận một bức tranh của Goya, hoặc chuỗi kim cương của dòng họ Hapsburg không bằng. Ông đẩy đôi mắt kính hình bán nguyệt lên cao trên sóng mũi và nhìn xuống đoạn cuối cùng trong bản di chúc của khách hàng của mình. Ba người còn sống của gia đình Scott ngồi im lặng. Adam nghĩ, không hiểu cha còn có gì thêm nữa nhỉ.



Dẫu cho đó là cái gì đi chăng nữa thì rõ ràng viên luật sư cũng đã cân nhắc nhiều lần trước khi nói, bởi vì ông đọc đoạn di chúc đó giống như một diễn viên giỏi nhập vai, ông chỉ phải liếc nhìn vào văn bản có mỗi một lần trong khi đọc.



- Và tôi cũng để lại cho con trai tôi - Ông Holbrookes ngừng lại một chút rồi đọc tiếp - chiếc phong bì kèm theo đây. Tôi chỉ có thể hy vọng chiếc phong bì này sẽ có thể đem đến cho con trai tôi những điều hạnh phúc hơn những gì nó đã đem lại cho tôi.



Adam gặp ánh mắt của em gái nhưng cô chỉ hơi lắc đầu chứng tỏ cũng bối rối chẳng kém gì anh. Anh liếc nhìn sang mẹ, rõ ràng bà vừa bị choáng váng. Liệu chiếc phong bì đó đáng sợ hay đáng lo buồn? Adam không thể nào đoán được. Không nói thêm một lời nào, ông Holbrookes đóng tập hồ sơ mỏng tanh đề tên đại tá Gerald Scott, huân chương Anh dũng, Sĩ quan Ngự lâm Vương quốc Anh, huân chương Quân công, Huân chương Chiến công. Ông đẩy lùi chiếc ghế và chậm rãi đứng lên đi về phía người vợ goá. Họ bắt tay nhau, bà nói: "Cám ơn ông", một cách nhã nhặn nhưng yếu ớt. Adam cảm thấy dường như người duy nhất trong căn phòng này nhận được phần nào tí chút lợi ích trong cái nghi thức thực hiện di chúc này là ông Holbrookes, nghĩa là nhân danh hãng Holbrookes, Holbrooke Gascoigne.



Anh đứng dậy và vội vã bước đến bên cạnh mẹ, bà hỏi:



- Ông Holbrookes, ông vui lòng uống trả với chúng tôi chứ?



Viên luật sư nói:



- Thưa phu nhân quý mến, tôi e là...



Nhưng Adam không buồn nghe tiếp. Rõ ràng phí dịch vụ đủ lớn để có thề miễn cho ông Holbrooke khỏi mất thì giờ đi uống trà với họ.



Khi mọi người đã ra khỏi văn phòng luật sư và yên tâm là mẹ và em gái đã ngồi yên ổn trên băng sau của chiếc xe con Moris Minor, Adam mới ngồi vào sau tay lái. Anh phải đỗ xe bên ngoài văn phòng của luật sư Holbrooke, ngay giữa phố. Các phố ở Appleshaw vẫn chưa có khu đỗ xe. Thậm chí trước khi anh mở chìa khóa điện để nổ máy, mẹ đã nêu lên một vấn đề thực tế:



- Chúng ta cần phải rũ bỏ cái xe này đi mới được. bây giờ mẹ không dám chạy xe nữa với cái giá sáu silling một galông xăng.



Margaret an ủi, nhưng trong giọng cô có cái gì đó thừa nhận mẹ nói đúng:



- Hôm nay mẹ không phải lo đến chuyện đó đâu - cô nói thêm muốn thay đổi đề tài câu chuyện - Adam, em thắc mắc không biết trong cái phong bì ấy có gì nhỉ?



Adam nói, muốn làm cho tâm trạng của cả ba người nhẹ bớt:



- Chắc là một bản chỉ dẫn tỉ mỉ phải điều tra xem năm trăm bảng của anh giấy ở đâu chứ gì.



Mẹ nói, nỗi sợ hãi lúc này lại trở lại trên gương mặt bà:



- Các con không được vô lễ trước cái chết như vậy. Mẹ đã van xin cha các con đốt cái phong bì ấy đi - bà nói thêm, giọng hầu như chỉ là thẩm thì.



Adam mím môi khi nhận ra đó ắt phải là chiếc phong bì mà cha mẹ anh đã nhắc đến cách đây nhiều năm khi anh chứng kiến một cuộc cãi nhau giữa họ, điều anh chưa bao giờ thấy. Adam vẫn còn nhớ rõ cái hôm cha anh đã cao giọng và giận dữ đó là chỉ vài ngày sau khi ông từ Đức trở về.



Bố đã khăng khăng nói:




Adam ngồi yên cho đến khi chắc chắn là không còn nghe thấy cái giọng kim choi chói của cô vang lên ở cầu thang nữa. Sau khi đã yên tâm, anh quay lại phòng minh, koá trái cửa lại. Adam ngồi xuống một cái ghế bành rất dễ chịu và lấy chiếc phong bì của cha ra khỏi túi áo. Đó là một chiếc phong bì nặng và đắt tiền, loại văn phòng phẩm Bố vẫn thường dùng, mua ở cửa hàng Smythson phố Bond với giá đắt gấp đôi so với mua ở cửa hàng Smith địa phương. Dòng chữ gọn ghẽ và rắn rỏi của cha anh viết: Đại uý Adam Scott, Bội tinh Chiến công.



Adam thận trọng mở chiếc phong bì, tay hơi run run và rút tờ giấy bên trong ra: đó là một bức thư rõ tàng do chính tay cha anh viết và một chiếc phong bì nhỏ hơn đã rất cũ bởi vì nó đã bị ố vàng bởi thời gian. Trên chiếc phong bì cũ là một nét chữ lạ: Đại tá Gerald Scott. Nét mực đã phai không còn nhận ra màu gì. Adam đặt chiếc phong bì cũ lên chiếc bàn nhỏ bên cạnh, mở bức thư của cha và bắt đầu đọc. Bức thư không đề ngày tháng:



Adam yêu quý của bố.



Nhiều năm qua có lẽ con đã nghe thấy rất nhiều lời giải thích về việc bố đột ngột rời khỏi trung đoàn. Hầu hết những lời giải thích đó là khôi hài, một số ít là phỉ bàng, nhưng bố luôn cho là tốt hơn hết bố nên giữ kín những ý kiến của mình. Tuy vậy bố vẫn cảm thấy nợ con một lời giải thích đầy đủ, chính vì thế nên mới có bức thư này.



Như con đã biết, địa điểm cuối cùng bố đóng quân trước khi rời khỏi trung đoàn là Nuremberg, từ tháng Mười một năm 1945 cho đến tháng Mươi năm 1946. Sau bốn năm công tác liên tục ngoài mặt trận bố đã được giao nhiệm vụ chỉ huy đơn vị quân Anh tại Nuremberg, chịu trách nhiệm canh giữ một số tướng lĩnh cao cấp của quân đội Đức đang bị giam giữ chờ toà án quốc tế xét xử vì tội ác chiến tranh. Mặc dầu người Mỹ chịu trách nhiệm chính, nhưng sau hơn một năm bố cũng biết khá rõ những tù nhân ở đó. Thậm chí bố bắt đầu tỏ ra khoan dung hơn đối với một số người trong bọn họ, và bố vẫn thường băn khoăn không hiểu người Đức sẽ đối xử với chúng ta như thế nào nếu như tình thế đảo ngược lại. Vào lúc đó những cách nhìn như vậy là không thể chấp nhận được. "Thân thiện" là từ cửa miệng dành cho những người không bao giờ được phép có những ý nghĩ thứ hai.



Trong số những tướng lĩnh cao cấp của Đức mà bố tiếp xúc thường xuyên có Riechsmarshal Hermann Goering, đó là một người làm cho bố ghê tởm ngay từ phút đầu tiên đến gần hắn. Bố thấy đó là một kẻ kiêu căng, hống hách và hoàn toàn không hề xấu hổ về những hành động man rợ hắn đã làm dưới danh nghĩa chiến tranh. Và chưa bao giờ bố tìm thấy bất cứ một lý do nào để thay đổi ý kiến của mình về hắn. Thực tế đôi khi bố còn tự hỏi làm sao mình lại có thể tự kiềm chế nổi mỗi khi hắn hiện diện trước mặt.



Đêm trước ngày Goering bì hành quyết hắn đề nghị được gặp riêng bố. Hôm đó là thứ hai, đến lúc này bố vẫn có thể nhớ lại chính xác từng chi tiết của buổi gặp gỡ đó như nó mới xảy ra ngày hôm qua. Bố nhận được lời đề nghị đó lúc đang nhận bàn giao ca gác từ người Nga, thiếu tá Vladimir Kosky. Thực tế là Kosky đã đích thân đưa cho bố lá thư yêu cầu. Ngay khi vừa kiểm tra việc canh gác và làm các công việc giấy tờ thường lệ xong, bố bèn cùng viên hạ sĩ trực ban đến gặp Reichsmashal tại buồng giam của hắn. Goering đang đứng vẻ chăm chú bên cạnh chiếc giường thấp và chào khi bố bước vào. Bốn bức tường gạch xây trơ trụi quét sơn xám bao giờ cũng làm bố rùng mình.



Bố hỏi:



- Ông yêu cầu được gặp tôi phải không? - Chưa bao giờ bố có thể dằn lòng để gọi hắn bằng tên hay cấp bậc



Hắn đáp:



- Phải. Đại tá, ông thật tử tế khi đến đây. Đơn giản là tôi chỉ muốn có một đề nghị cuối cùng của một người sắp chết. Liệu ngài hạ sĩ có thể để chúng ta lại với nhau không?



Nghĩ rằng đó là một việc rất cá nhân cho nên bố bảo viên hạ sĩ ra ngoài hành lang chờ. bố thừa nhận là đã không hề có một ý niệm về một việc gì có thể cá nhân đến thế khi người ta chỉ còn có vài giờ để sống, nhưng khi cửa đã đóng lại hắn cúi chào một lần nữa và đưa cho bố chiếc phong bì mà hiện nay con đang giữ. Sau khi bố nhận bức thư hắn chỉ nói vỏn vẻn thế này: "Mong ông hãy rộng lượng và chỉ mở bức thư này ra vào sáng mai sau khi tôi đã chết" - Rồi hắn nói thêm - "Tôi chỉ có thể hy vọng là nó sẽ đền bù lại phần nào những lời trách cứ sau này người ta có thể trút lên vai ông". Lúc đó bố không hề có chút khái niệm là hắn ám chỉ điều gì và chỉ nghĩ là có thể hắn ở trong trạng thái thần kinh không thăng bằng. Trong những ngày cuối cùng trước khi chết, rất nhiều tù nhân thổ lộ với bố nhiều điều mà cuối cùng một số điều họ thổ lộ hoàn toàn chỉ là những ý nghĩ của người điên.



Adam dừng lại để nghĩ xem mình sẽ cư xử như thế nào trong hoàn cảnh đó, rồi quyết định đọc tiếp để biết cha anh đã biết được những gì.



Mặc dù vậy những lời cuối cùng mà Goering nói khi bố rời khỏi phòng giam không có vẻ gì là của một người điên. Hắn nói: "Ông hãy tin đi. Đó là một kiệt tác. Chớ có coi thường nó". Nói rồi hắn châm một điếu thuốc, cứ như đang thư giãn trong câu lạc bộ của mình sau một bữa ăn tối ngon lành. Mọi người có những giả thuyết khác nhau về việc ai đã tuồn thuốc lá cho hắn, và đồng thời cũng băn khoăn không hiểu còn những cái gì được chuyển ra ngoài nữa.



Bố bỏ cái phong bì vào túi và ra khỏi phòng giam để đi đến chỗ viên hạ sĩ. Sau đó bố và anh ta đi kiểm tra các buồng giam khác để chắc chắn là tất cả các buồng đều đã được khoá chặt cẩn thận. Kiểm tra xong bố quay lại văn phòng của mình. Khi đã yên tâm là không còn việc cần kíp nào nữa, bố bèn ngồi xuống để viết báo cáo. Bố để chiếc phong bì trong túi áo với ý định là sẽ mở ra ngay sau khi Goering bị hành quyết vào sáng mai. Bố đang kiểm tra lại nhật lệnh ngày hôm đó thì viên hạ sĩ nhảy bổ vào phòng không kịp gõ cửa. Anh ta nói: "Thưa ngài, Goering, Goering!". Nhìn thấy vẻ hốt hoảng trên mặt anh ta bố không cần hỏi thêm gì nữa. Cả hai chạy đến phòng giam Reichsmashal.



Goering nằm úp trên giường. Bố lật hắn lại thì thấy hắn đã chết. Những chuyện xảy ra sau đó khiến bố quên hẳn chiếc phong bì của Goering. Sau khi khám nghiệm pháp y, người ta phát hiện ra hắn chết vì thuốc độc. Toà án kết luận là trong thi thể hắn có một lượng độc tố xyanua, chất độc đó chắc chắn là đã được tẩm trong điếu thuốc lá hắn hút.



Bởi vì bố là người cuối cùng gặp riêng hắn ngay trước khi hắn chết, cho nên có vài lời xì xào về việc tên bố có dính dáng đến cái chết của hắn. Dĩ nhiên là chẳng hề có chút sự thật nào trong lời kết tội đó. Bố chưa hề nghi ngờ lấy một giây nào về việc toà án đã tuyên một bản án rất chính xác cho trường hợp của hắn, và hắn xứng đáng bị treo cổ để đền tội cho những gì đã làm trong chiến tranh.



Bố vô cùng đau đớn vì sau đó người ta kết tội sau lưng là bố có thể đã giúp đỡ cho Goering chết một cách dễ dàng, bằng cách tuồn thuốc lá tẩm thuốc độc cho hắn. Vì vậy bố cảm thấy hành động duy nhất có thể làm là ngay lập tức từ chức, để tránh sẽ làm mất danh dự thêm cho trung đoàn. Cuối năm đó khi đã trở về Anh và quyết định quẳng bộ quân phục đi bố lại nhớ đến cái phong bì. Khi bố giải thích cặn kẽ cho mẹ con hiểu về chuyện không may đó mẹ con đã van nài bố huỷ chiếc phong bì, mà mẹ con cho là đã đem lại đủ ô nhục cho gia đình. Và dù cho người ta có chỉ được rõ ai là kẻ thật sự chịu trách nhiệm về việc giúp cho Goering tự tử thì theo mẹ con việc đó cũng không đem lại bất cứ điều gì cho bất cứ ai. Bố đồng ý tuân theo ước nguyện của mẹ con, và mặc dầu chưa bao giờ mở cái phong bì ấy ra nhưng bố cũng không thể nào buộc mình huỷ nó đi được khi nhớ lại câu nói cuối cùng mà Goering đã lẩm bẩm về việc nó là một kiệt tác. Vì thế cuối cùng bố đã quyết định giấu nó trong đống giấy tờ riêng.



Dù sao đi chăng nữa, bởi ý nghĩ rằng tội lỗi của người cha có thể sẽ tiếp tục đổ lên đầu thế hệ con cháu mình, bố cảm thấy không thể để nỗi dằn vặt ấy ảnh hưởng đến con. Nếu như chiếc phong bì này có đem lại cho con chút gì đó bố chỉ có một yêu cầu duy nhất là hãy để mẹ con là người đầu tiên được hưởng quyền lợi mà không bao giờ biết là tài sản ấy đến từ đâu.



Suốt bao năm nay, bố đã theo dõi những tiến bộ của con với một niềm tự hào to lớn và cảm giác chắc chắn rằng bố có thể để con tự chọn lấy quyết định đúng đắn cho mình.



Nếu như con còn chút ngần ngừ về việc mở cái phong bì này ra thì hãy huỷ ngay nó đi mà không cần cân nhắc thêm. Nhưng nếu con mở nó ra mà thấy rằng mục đích của bức thư là kéo con vào những việc làm ô nhục thì hãy vứt nó đi, đừng nghĩ lại làm gì.



Có lẽ Chúa ở bên con.



Bố yêu dấu của con.



Gerald Scott



Adam đọc lại bức thư một lần nữa, nhận ra bố đã tin cậy anh biết chừng nào. Tim anh thổn thức khi nghĩ đến bố đã uổng phí cả một cuộc đời vì những lời xì xào bóng gió của những kẻ thuộc cấp - chính những kẻ đó cũng đã đưa sự nghiệp của anh sớm chấm dứt như thế này.



Cuối cùng, sau khi đọc bức thư đến lần thứ ba anh gấp nhỏ lại và nhét lại vào phong bì.



Rồi anh cầm chiếc phong bì trên bàn lên. Dòng chữ Đại tá Gerald Scott được viết bằng chữ đậm ngang qua phong bì, màu mực đã phai.



Adam rút chiếc lược trong túi áo trong ra và luồn vào mép chiếc phong bì, chậm rãi rọc ra. Anh lưỡng lự một lát trước khi lấy ra hai trang giấy, cả hai đều đã ngả màu vàng vì thời gian. Một tờ có vẻ là một bức thư, còn tờ kia hình như là một loại chứng từ gì đó. Chữ thập ngoặc của Đức Quốc xã in trên đầu tờ giấy viết thư, phía trên là tên Reissmarshal Hermann Goering. Tay Adam hơi run khi anh đọc dòng dầu tiên.



Nó bắt đầu bằng: Sehr geehrter Herr Oberst Scott.