Truy Tìm Bức Tranh Thánh
Chương 6 :
Ngày đăng: 15:14 19/04/20
Giáo sư Brunweld ít khi được đối xử kính cẩn. Đó là số phận của một học giả, từ lâu ông đã rút ra kết luận như vậy. Người ta lúc nào cũng chỉ nhắc đến hai chữ "Tổng thống" và ông cũng đôi khi tự hỏi là mình có nên tin vào hai từ ấy không. Điều chắc chắn là đang nửa đêm họ đã lôi ông ra khỏi giường và lặng lẽ điệu ông đến Lầu Năm góc. Người ta nói là cần hỏi ý kiến của một chuyên gia như Brunweld. Liệu có thể như vậy không nhỉ? Sau sự kiện Cuba và Dallas ông đã bắt đầu tin rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra.
Ông đã có lần đọc ở đâu đó rằng Lầu Năm góc có rất nhiều tầng, cả ngầm dưới đất cũng như bên trên. Bây giờ ông sẽ có thể biết được điều đó có thật hay không.
Sau khi đưa cho ông một mẩu tài liệu người ta để ông lại một mình. Họ chỉ cần ông trả lời một câu hỏi. Ông đã nghiên cứu các điều khoản trong hơn một giờ sau đó gọi họ đến. Ông cho biết theo ý kiến của ông thì đó là một tài liệu xác thực và nếu như người Nga vẫn giữ được bản thứ hai của tài liệu này, cũng được ký vào năm 1876 thì tổ quốc hiện này của ông sẽ - nói theo lối nói của người Mỹ thế nào bây giờ nhỉ - à, phải rồi, sẽ gặp nhiều rắc rối lớn.
Ông bắt đầu hiểu rằng người ta đã nói rất nghiêm túc là ông sẽ không được phép rời Lầu Năm góc trước ngày thứ Hai. Một khi đã đọc ngày tháng ghi dưới góc tờ giấy thì ông không hề thấy ngạc nhiên nữa. Như vậy ông sẽ có ba ngày hoàn toàn tách được khỏi đám sinh viên hay thắc mắc và bà vợ lắm lời của mình. Sẽ chẳng bao giờ có dịp tốt hơn để yên tĩnh và đọc tuyển tập của Proust.
Romanov biết hắn không thể mạo hiểm đứng cạnh chiếc xe lâu hơn nữa. Bộ quần áo hắn mặc quá nổi bật khiến tất cả những ai ra vào cửa khách sạn đều có thể chú ý. Ba phút sau hắn quẳng chiếc mũ màu xám lên băng ghế sau và bảo Valcheck đánh xe ra khỏi bãi đỗ của khách sạn và quay về Sứ quán.
Valcheck gật đầu. Anh ta đã thực hiện mệnh lệnh của Romanov "thay thế" hai điệp viên người Anh dễ dàng như được người ta nhờ bịt một cái ống nước bị vỡ. Điều duy nhất không theo đúng kế hoạch là Valcheck đã phải cố gài kín nút áo của bộ đồng phục của người lái xe "bị thay", Romanov nghĩ là hắn đã nhận ra một nụ cười tự ái trên mặt Valcheck khi anh ta nhận ra ai sẽ phải đóng vai lái xe.
Romanov đứng vào dưới một bóng râm chờ thêm nửa tiếng nữa, cho đến khi tin chắc rằng kế hoạch đã bị hủy bỏ từ bên London. Hắn vẫy một chiếc taxi và bảo tài xế đưa về đại Sứ quán. Hắn không nhận thấy người lái xe có vẻ nghi ngờ nhìn người hành khách mặc bộ đồng phục lái xe.
Chẳng lẽ hắn có thể để sổng Adam lần thứ hai ư? Chẳng lẽ một lần nữa hắn lại đánh giá thấp gã người Anh? Một lần nữa Yuri sẽ đòi hỏi một lời giải thích đáng tin cậy.
Trên đường về Sứ quán bỗng trong óc Romanov lóe lên một hình ảnh, nhưng hắn vẫn không phân biệt được rõ cảm giác đó. Có cái gì đó không đúng lắm đã xảy ra ở ngoài khách sạn. Chỉ cần suy nghĩ minh mẫn một lúc thôi là mọi sự sẽ rõ ràng. Hắn nhớ lại từng thời điểm trong ba mươi phút cuối cùng như quay ngược một cuốn phim, nhưng một vài khuôn hình vẫn rung lên nhòe nhoẹt.
Về đến Sứ quán, Valcheck đưa cho hắn một cái phong bì lớn và nói rằng do Moscow vừa gửi đến bằng chuyến thư ngoại giao.
Romanov đọc lần thứ hai bức thư vừa được giải mã, vẫn không hiểu điều đó có ý nghĩa như thế nào.
"Hiện có một tài liệu liên quan đến đại tá Gerald Scott, Huân chương Quận công, Huân chương chiến công, Huân chương Anh dũng và có thể sẽ có ích khi tiếp xúc được với đối tượng. Toàn bộ tài liệu sẽ được chuyển đến vào sáng nay. Muộn nhất là buổi trưa".
Romanov băn khoăn không hiểu tổng hành dinh có thể phát hiện được điều gì về cha Scott mà có thể có lợi cho hắn. Ý định chưa hề thay đổi của hắn vẫn là đứa con trai sẽ sớm đi gặp thằng bố ở địa ngục trước khi có một mệnh lệnh tiếp theo nào của Moscow.
Romanov nghĩ đến cha mình và lối thoát mà có lẽ ông đã chọn là bỏ lại một đống của cải như vậy. Phải, hồi đó hắn đã may mắn.
Bây giờ, vì một may mắn tiếp theo, hắn cần phải giết cho được Scott và mang bức tranh Thánh về. Nếu như thất bại....thì hắn sẽ phải xuống gặp cả hai người cha.
Romanov vừa đi về phòng làm việc nhỏ mà người ta dành sẵn cho hắn, vừa nói:
- Hắn vừa rất thông minh, vừa là một kẻ khong chuyên nghiệp vô cùng may mắn.
Valcheck đi theo sau không bàn bạc lời nào mà chỉ hỏi tiếp theo đây phải làm gì.
- Hãy nói cho tôi biết cậu nhìn thấy những gì trong thời gian chúng ta ở khách sạn ấy.
Valcheck hỏi:
- Anh muốn nói gì?
Romanov vừa mặc lại bộ quần áo của mình, vừa nói:
- Không cần phải hỏi, mà hãy trả lời đi. Hãy nói lại cho tôi tất cả những gì cậu nhớ là đã nhìn thấy, kể từ lúc chúng ta đến trước cái khách sạn ấy.
Valcheck bắt đầu nói:
- Chúng ta tới khách sạn lúc mười giờ kém mấy phút, đỗ chiếc Mercedes ở phía bên kia đường và chờ Scott xuất hiện. Sau đó chúng ta chờ ở đó cho đến mười giờ hơn mấy phút nhưng không thấy bóng dáng Scott đâu.
- Không, không, không. Kỹ hơn nữa. Đừng chung chung như vậy. Ví dụ, cậu có nhớ là có điều gì không bình thường xảy ra trong khi chúng ta đứng đợi không?
Valcheck nói:
- Không có gì đặc biệt cả. Mọi người vẫn liên tục ra vào khách sạn, nhưng tôi cam đoan là không có Scott trong số những người đi ra hoặc đi vào.
Romanov hỏi:
- Cậu quá chủ quan khi cam đoan như vậy. Sau đó thế nào nữa?
- Sau đó ư? Sau đó anh ra lệnh cho tôi quay lại Sứ quán và chờ anh về.
- Lúc đó là mấy giờ?
- Lúc đó chắc chắn là mười giờ bẩy phút. Tôi nhớ chắc chắn là như vậy, bởi vì lúc chiếc xe du lịch chuyển bánh tôi có nhìn đồng hồ.
Romanov hỏi:
- Chiếc xe du lịch ư?
- Đúng vậy. Chiếc xe chở đầy nhạc cụ. Nó chạy lúc...
Romanov nói:
- Nhạc cụ. Đúng rồi. Bây giờ tôi mới nhớ ra điều gì cứ làm tôi lo lắng. Đàn Cello, đàn Violin, và một chiếc Công trơ bass nữa cũng không được chất vào hòm xe.
Valcheck có vẻ bối rối nhưng không nói gì.
- Gọi điện ngay cho khách sạn và hỏi xem những ai lên chiếc xe du lịch ấy và họ đang đi về hướng nào.
Valcheck chạy bổ đi ngay.
Romanov nhìn đồng hồ: Mười giờ năm lăm. Phải đi ngay, đi thật nhanh. Hắn ấn nút đàm thoại nội bộ bên cạnh điện thoại:
- Tôi cần một chiếc xe chạy rất nhanh, và quan trọng hơn nữa là một lái xe siêu hạng.
Valcheck quay lại vừa lúc Romanov đặt ống nghe xuống:
- Chiếc xe du lịch đó là của Dàn nhạc giao hưởng Hoàng gia thuê, họ đang đi biểu diễn vòng quanh châu Âu...
Romanov nói:
- Tiếp theo đây họ biểu diễn ở đâu?
- Franfurkt.
° ° °
Adam ra khỏi thị trấn nhỏ, không quên kiểm tra mọi sự bằng một đôi mắt quân sự lão luyện. Con phố chính vắng tanh nhưng có một thằng bé đang chơi đá bóng vào một bên sườn núi được quy ước, khung thành. Thằng bé quay lại, nhìn thấy Adam, nó đá quả bóng về phía anh. Adam đá trả lại, thằng bé bắt quả bóng bằng tay và ngoác miệng cười. Nụ cười biến mất khi nó thấy Adam vội vã đi nhanh về phía sườn núi. Trên dãy phố chính chỉ có vài ngôi nhà cũ kỹ. Một bên đường là khe núi rất nguy hiểm phủ đầy dây leo, trong khi phía bên kia trải dài thoai thoải những cánh đồng xanh tươi với những con bò cổ đeo chuông leng keng đang vui sướng nhảy nhót trên bãi cỏ. Đàn bò khiến Adam thấy đói bụng.
Anh đi tiếp lên núi cho đến khi gặp một khúc quanh. Đứng ở góc này anh có thể quan sát xuống tận chân núi trong vòng nửa dặm mà không bị ai phát hiện. Anh đứng đó thử xem kế hoạch mình đề ra có khả thi hay không, chỉ một lúc sau anh đã phát hiện rất nhanh những chiếc xe kiểu Anh hoặc mang biển số Anh trong vòng hai ba trăm mét trở lại. Cũng không khó nhận thấy rằng ít có người nước ngoài nào thích mua một chiếc xe của Anh.
Hai mươi phút tiếp theo đó anh đã vẫy khoảng bảy chiếc xe mang biển số anh chạy về hướng Lausanne nhưng không ai dừng lại. Adam quên biến mất rằng ngày xưa khi còn mặc quân phục thì vẫy xe thật dễ dàng. Hồi đó hầu như tất cả mọi người đều dừng lại. Anh nhìn đồng hồ: chỉ có thể mạo hiểm thêm vài phút nữa là cùng. Ba chiếc nữa không dừng lại, thế rồi chiếc thứ tư đi chậm lại chỉ để chạy nhanh hơn trong khi Adam vội vã chạy tới.
Lúc mười một giờ hai mươi Adam quyết định không thể đứng trên đường nữa. Anh nhìn xuống khe núi và nhận ra không còn cách nào khác ngoài việc cuốc bộ. Anh nhún vai và bắt đầu bước lên những bậc thang dẫn xuống một thung lũng hy vọng gặp một con đường khác mà trên bản đồ được đánh dấu khá rõ. Adam buột miệng chửi thề khi nhìn thấy một khoảng đất trống trải. Giá như anh bắt đầu đi cách đây một giờ.
- Tôi e rằng Nam Cực đã chết.
- Tại sao?
- Bởi vì giờ đây chúng ta biết rõ rằng cha anh đã dính dáng đến việc giúp đỡ cho Goering chết một cách dễ dàng.
- Tôi không hiểu.
- Anh không thể hiểu được mặc dầu điều đó hoàn toàn đơn giản. Anh chàng đồng hương người Anh lúc - nào - cũng - vững - vàng của anh là con trai của một thằng chó đẻ đã tuồn cyanua vào phòng giam Goering ở Nuremberg. Phần thưởng cho sự phục vụ ấy của hắn hóa ra lại là bức tranh Thánh của Sa hoàng.
- Nhưng tất cả các thành viên trong nhóm D4 của chúng ta đều cho rằng anh ta là hy vọng duy nhất của chúng ta.
- Tôi chẳng cần biết D4 của các anh nghĩ cái mẹ gì cả. Nếu hồi chiến tranh thằng bố có thể đứng về phía bọn Đức thì tại sao trong hòa bình thằng con lại không thể làm việc cho người Nga?
- Cha nào con nấy mà.
- Hẳn rồi.
- Vậy thì tôi phải làm gì bây giờ?
- Cứ báo cáo cho chúng tôi biết những việc làm của Bộ ngoại giao về chuyện này. Còn lại điệp viên của chúng ta ở Thụy Sĩ sẽ lo.
- Nhanh nữa lên!
Romanov rít lên mặc dù hiểu rằng không phải là vì người lái xe của Sứ quán không đủ tài nghệ. Lúc nào hắn cũng cảm thấy đang bị tuột mất một tia sáng, một kẽ hở, một cơ hội để đuổi kịp. Thực tế kim đồng hồ trên đồng hồ cây số chỉ cần thêm lên năm kilômét một giờ nữa là có thể khiến họ lao xuống vực thẳm. Lúc ở trên đường cao tốc họ đã nháy đèn liên tục và người lái xe không hề rời tay khỏi nút bấm còi, đồng hồ tốc độ không hề tụt xuống dưới một trăm ba mươi kilômét một giờ.
- Nhất định phải đuổi theo hắn cho đến tận biên giới.
Hắn cứ nhắc đi nhắc lại và nhìn vào bảng đồng hồ. Sau khi họ phóng được hơn một trăm cây số chỉ trong vòng có năm lăm phút cả ba người bắt đầu nhìn chằm chằm về phía trước tìm chiếc xe du lịch, nhưng phải thêm ba mươi cây số nữa Valcheck mới chỉ về phía trước và hét to:
- Nhất định là kia rồi, cách đây khoảng một kilômét trên sườn núi.
Romanov nói, mắt không rời khỏi chiếc xe du lịch.
- Ép chúng ra khỏi đường!
Người lái xe của Sứ quan phóng vọt lên để vượt qua rồi ngay lập tức đánh mạnh tay lái sang bên trái khiến người lái xe du lịch phải đạp hết phanh và chúi sang bên lề đường. Valcheck ra hiệu cho người lái xe du lịch đi chậm lại.
Romanov nói:
- Không ai được nói gì, để mọi chuyện cho tôi, và đứng gần xe để phòng bất trắc.
Hắn nhảy ra khỏi xe và chạy về phía chiếc xe du lịch, mắt chằm chằm tìm một bóng người đang chạy trốn. Hắn sốt ruột bám vào của xe cho đến khi người lái xe bấm nút và cánh cửa to tướng bật mở. Romanov nhảy lên, hai người kia đi sau vài bước. Hắn rút hộ chiếu trong túi ra dí vào mặt người lái xe đang sợ chết khiếp và hét lên:
- Ai là người phụ trách ở đây?
Stephen Grieg đứng lên:
- Tôi là giám đốc công ty. Tôi có thể...
Romanov nói:
- Cảnh sát Thụy Sĩ đây.
Grieg toan hỏi thì Romanov đã nói:
- Sáng nay khi rời khỏi Geneva các anh có chở thừa người nào không?
- Có lẽ không - trừ vài người đang ăn sáng. Ông có thể tìm thấy họ trong quầy bar cách đây một trăm mét về phía cửa khẩu Pháp.
Trong bar chỉ có bốn nhân viên hải quan và một cô phục vụ. Hai nhân viên hải quan đang chơi bi-a trong khi hai người kia ngồi uống cà phê ở một chiếc bàn phía trong. Romanov lại rút tấm ảnh chụp ra một lần nữa đưa cho hai người chơi bi-a xem. Cả hai đều khó chịu lắc đầu và quay lại chọc những quả bóng màu.
Hai người đi ra quầy. Valcheck đưa cho Romanov một tách cà phê và một chiếc sandwich, hắn cầm cà phên và bánh đi về phía chiếc bàn có hai nhân viên hải quan cuối cùng ngồi. Một trong hai người đang kể cho anh bạn đồng nghiệp nghe chuyện gặp một tay lái xe tải người Pháp định giở trò buôn lậu đồng hồ Thụy Sĩ qua cửa khẩu. Romanov đẩy tấm ảnh qua bàn, hỏi:
- Hôm nay các anh có thấy người này đi qua đây không?
Không ai tỏ vẻ nhận ra, người trẻ tuổi lại nói chuyện tiếp tục. Romanov nhấm ngụm cà phê và bắt đầu suy tính xem nên chạy đến Basle hay là gọi người đến tiếp viện để truy quét vùng đồi núi này. Rồi hắn nhận thấy anh chàng kia vẫn đang nhìn tấm ảnh. Romanov hỏi lại xem anh ta có nhìn thấy Scott không?
Viên sĩ quan trẻ tuổi nói, hơi vội vã quá:
- Không, không.
Nếu là ở Moscow thì Romanov đã có thể bắt anh ta phải nói "có" ngay, nhưng ở đây hắn cũng phải giữ chút phép lịch sự. Hắn khẽ hỏi:
- Lâu chưa?
Viên sĩ quan hỏi:
- Ông nói gì kia?
Romanov nhắc lại bằng giọng quả quyết hơn:
- Lâu chưa?
Mồ hôi bắt đầu túa ra trên trán viên sĩ quan, anh ta nói:
- Không phải hắn.
- Nếu như không phải là hắn thì anh biết là không phải hắn từ bao giờ?
Viên sĩ quan lưỡng lự:
- Hai mươi phút. Có lẽ ba mươi phút.
- Xe tải à?
- Một chiếc Citroen, tôi nghĩ vậy.
- Màu?
- Vàng.
- Các hành khách khác?
- Ba người. Trông như một gia đình. Người mẹ, người cha, cô con gái. Hắn ngồi ghế sau cùng với cô con gái. Người cha nói là họ đã đính hôn.
Romanov không hỏi thêm câu nào nữa.
Jim Hardcastle tiếp tục cuộc nói chuyện đơn phương trong hơn một giờ. Ông ta nói:
- Thật ra IMF tổ chức hội nghị hàng năm ở các thành phố khác nhau. Năm ngoái ở Denver, Colorado và sang năm sẽ ở Perth, Australia. Vì thế tôi sẽ được đi lang thang khá nhiều. Nhưng đã làm nghề xuất khẩu thì nhất định phải quen với việc đi khắp đó đây.
- Tôi chắc là ông phải quen rồi.
Adam nói, cố hiểu những lời vô bổ ấy trong khi vai vẫn đau nhức nhối.
Jim nói tiếp:
- Dĩ nhiên là tôi chỉ làm chủ tịch trong một năm nay thôi. Nhưng tôi đã có những kế hoạch để đảm bảo rằng những người đã bỏ phiếu cho mình sẽ không nhanh chóng quên cái năm 1966.
Adam nói:
- Họ sẽ không thể nào quên được nhanh đâu.
- Tôi sẽ cho họ thấy Colman cũng đã có một năm xuất khẩu đáng ghi nhớ.
- Tuyệt thật đấy.
Ông ta nói và cười phá lên:
- Phải, nhưng cũng phải thừa nhận rằng phần lớn sản phẩm của chúng tôi bị bỏ lại trên bàn ăn.
Adam cũng cười phá lên nhưng cảm thấy rõ ràng là bà Hardcastle và Linda đã nghe câu đùa đó nhiều lần.
- Dudley, tôi muốn mời anh dự bữa tiệc mừng chủ tịch nghiệp đoàn, với tư cách là bạn của tôi. Chắc chắn là vợ tôi tán thành điều đó.
Bà Hardcastle gật đầu, Linda cũng bẽn lẽn gật đầu theo.
Adam nói:
- Không thể có gì làm tôi vui mừng hơn như thế.
Nhưng e rằng chỉ huy của tôi sẽ không hài lòng nếu biết rằng tôi dừng lại trên đường quay về Anh để ăn tiệc. Mong ông hiểu cho.
Jim nói:
- Dĩ nhiên là tôi hiểu, nếu như chỉ huy của ông cũng là loại người như thủ trưởng của tôi ngày xưa. Tuy vậy nếu có dịp nào đến Hull thì nhớ gọi điện cho tôi.
Ông lấy một tấm danh thiếp trong túi áo trên và quài tay ra sau đưa cho Adam.
Adam đọc những dòng chữ in nổi trên tấm danh thiếp và băn khoăn không hiểu MIFT là cái gì, nhưng không hỏi.
Khi xe bắt đầu đi vào ngoại ô, Jim hỏi:
- Anh muốn xuống chỗ nào ở Dijon này?
Adam đáp:
- Chỗ nào khá trung tâm là được, miễn là tiện cho ông.
- Vậy thì bao giờ anh thấy tiện thì cứ hô lên. Dĩ nhiên là tôi bao giờ cũng đảm bảo rằng đó là một bữa ăn không có mù tạt.
Đột nhiên Adam nói:
- Ông có thể cho tôi xuống góc phố kia được không?
- Ồ, thế à?
Jim có vẻ buồn bì mất một người chịu chuyện hay ho đến thế. Ông miễn cưỡng đỗ xe lại bên vệ đường.
Trước khi chui ra khỏi xe, Adam cúi xuống hôn lên má Linda. Sau đó anh bắt tay ông bà Hardcastle. Jim nói:
- Rất vui vì được gặp anh. Nếu như anh thay đổi ý kiến thì hãy đến khách sạn tìm chúng tôi...ơ kìa, vai anh có máu đấy ư, anh bạn?
- À, đó chỉ là vài vết sây xước khi nhảy dù thôi. Không có gì đáng ngại cả. Bọn Mỹ chớ có nghĩ rằng chúng có thể vượt qua được tôi.
Jim nói:
- Không, không thể được, dĩ nhiên rồi. Thôi, chúc may mắn nhé.
Chiếc xe rời đi, Adam đứng lại trên hè phố nhìn theo họ. Anh mỉm cười cố vẫy theo rồi quay đi, nhanh chóng bước xuôi phố và tìm một khu vực có các cửa hàng. Chỉ một lúc sau anh đã vào đến trung tâm thành phố và nhẹ người vì thấy các cửa hiệu vẫn còn mở cửa. Anh bắt đầu nhìn quanh tìm một chữ thập xanh trên bảng hiệu. Phải đi thêm khoảng năm mươi mét nữa mới tìm được một cái, anh lưỡng lự bước vào.
Môt người đàn ông cao, tóc cắt ngắn mặc một chiếc áo khoác bằng da dài đứng trong góc nhà, lưng quay ra cửa. Rồi ông ta quay lại nhăn mặt nhìn vị thuốc muốn mua và vuốt chòm ria.
Adam bước đến chỗ người bán hàng cố nói thật tự tin:
- Ông có nói được tiếng Anh không?
- Hy vọng là có thể lói được.
Adam giải thích:
- Tôi cần một ít iod, băng vải, gạc và một miếng băng dính. Tôi bị ngã đập vai vào đá nhọn.
Người bán hàng nhanh chóng đặt những thứ được yêu cầu lên bàn, vẻ mặt không thích thú lắm. Ông ta nói:
- Đây là những thứ ông yêu cầu, nhưng ông sẽ thấy chúng có tên khác. Tất cả là hai mươi ba francs.
- Tiền Thụy sĩ có được không?
- Dĩ nhiên.
Adam hỏi:
- Quanh đây có khách sạn nào không?
- Ngay sau góc đường kia có một cái, hoặc là bên kia quảng trường cũng có.
Adam cám ơn và đưa tờ ngân phiếu Thụy sĩ sau đó rời hiệu thuốc đi tìm một cái khách sạn. Đúng như người bán hàng nói, khách sạn Pháp ở ngay gần đấy. Anh bước lên bậc thềm để vào khách sạn và thấy có rất nhiều người đứng chờ để nhận phòng. Adam vắt chiếc áo khoác lên bên vai bị thương và bước thẳng vào phía trong, vừa đi vừa nhìn tấm biển treo trên tường. Sau đó anh bước thẳng qua hành lang như một khách trọ đã ở đây lâu ngày và đi theo chỉ dẫn xuống một cầu thang hẹp, sau đó đi tiếp đến ba tấm biển chỉ dẫn khác. Cánh cửa thứ nhất có hình một người đàn ông, cánh cửa thú hai có hình đàn bà, cánh cửa thứ ba có hình một chiếc xe đẩy.
Anh ngập ngừng mở cánh cửa thứ ba và ngạc nhiên thấy trong đó chỉ là một căn phòng hình vuông với một bồn vẹ sinh cao dựa sát tường.
Adam khóa trái cửa lại và buông áo khoác rơi xuống sàn nhà. Anh đứng nghỉ hồi lâu rồi bắt đầu chậm rãi cởi áo xuống tận thắt lưng. Sau đó mở đầy một chậu nước ấm.
Adam thấy cám ơn những buổi huấn luyện cấp cứu bất tận, hồi đó anh chưa bao giờ tin sẽ có một lúc nào đó có tác dụng. Hai mươi phút sau cái đau bắt đầu dịu đi và thậm chí anh còn cảm thấy dễ chịu.
Anh cúi xuống đưa tay phải nhặt chiếc áo khoác và cố vắt lại lên vai. Chính lúc đó bức tranh Thánh từ trong túi áo rơi xuống sàn gạch. Khi bức tranh chạm vào nền gạch men, tiếng kêu phát ra khiến Adam sợ nó bị vỡ mất. Anh lo lắng nhìn xuống đất rồi từ từ quỳ xuống.
Bức tranh tách làm đôi tựa như một cuốn sách mở.