Truy Tìm Dracula

Chương 1 :

Ngày đăng: 13:57 19/04/20


Trình tự sắp xếp những tài liệu này sẽ trở nên rõ ràng trong khi đọc. Mọi vấn đề không cần thiết đã được loại bỏ, sao cho một câu chuyện hầu như mâu thuẫn với những khả năng mà người đời sau tin tưởng có thể hiên ngang đứng vững như một sự thật giản đơn. Tuyệt đối không có sự khẳng định nào về những điều xảy ra trong quá khứ, những điều có thể sai lạc do trí nhớ, bởi tất cả các ghi chép được chọn ở đây đều hoàn toàn mang tính đương thời, được đưa ra từ quan điểm và trong phạm vi kiến thức của những người tạo ra chúng.



- Bram Stoker, Dracula, 1897



Năm 1972, tôi bước vào tuổi mười sáu - cha bảo tôi hãy còn quá nhỏ, chưa thể đi cùng cha trong những chuyến công cán ngoại giao. Cha muốn biết chắc là tôi đang ngồi nghe giảng chăm chú trong lớp tại Trường Quốc tế Amsterdam hơn; thời kỳ đó cơ quan của cha tôi đặt tại Amsterdam, nên thành phố ấy trở thành nhà của tôi trong một thời gian dài, đến độ tôi hầu như quên hẳn cuộc sống ở Mỹ trước đó. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy kỳ lạ là mình đã ngoan ngoãn đến thế suốt thời niên thiếu, trong khi những người khác cùng thế hệ đều đắm chìm trong ma túy, hoặc biểu tình phản đối cuộc chiến tranh đế quốc ở Việt Nam, tôi đã lớn lên trong một thế giới được bảo bọc kỹ đến độ cuộc sống thành niên trong giới tri thức của tôi cũng có vẻ gì đó sặc mùi phiêu lưu mạo hiểm. Tôi vốn mồ côi mẹ, nhưng được cha chăm sóc chu đáo bằng một ý thức trách nhiệm gấp đôi mà nếu không có nó ông đã chẳng bảo bọc tôi tuyệt đối đến thế. Mẹ tôi mất khi tôi còn rất nhỏ, trước khi cha thành lập Trung tâm vì Dân chủ và Hòa bình. Cha không bao giờ nói về mẹ và thường lặng lẽ nhìn đi nơi khác mỗi khi tôi hỏi han; từ nhỏ tôi đã hiểu rằng đối với cha, đó là một chủ đề quá đau đớn để bàn luận. Thay vào đó, cha đích thân đặc biệt chăm nom tôi, đồng thời cung cấp cho tôi một loạt nữ gia sư và quản gia - tiền bạc không thành vấn đề đối với cha trong những việc liên quan đến chuyện giáo dục tôi, cho dù chúng tôi chỉ sống giản dị đắp đổi qua ngày.



Người quản gia sau cùng là bà Clay, đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc căn nhà chật hẹp kiểu thế kỷ mười bảy của chúng tôi bên bờ kênh Raamgracht, con kênh chính giữa trung tâm thành phố cổ kính này. Hàng ngày, bà Clay mở cửa cho tôi vào nhà khi tôi đi học về và thế vai phụ huynh của tôi khi cha đi xa, đây là việc bà phải thường xuyên đảm nhiệm. Bà là người Anh, lớn tuổi hơn mẹ, khéo léo với cây phất trần nhưng vụng về với bọn trẻ tuổi loi choi chúng tôi; đôi khi, nhìn gương mặt già nua lộ vẻ thương hại của bà ở phía bên kia bàn ăn, tôi có cảm tưởng bà hẳn đang nghĩ mình là mẹ tôi và tôi đâm ra ghét bà vì điều đó. Khi cha đi vắng, ngôi nhà xinh đẹp cũng vắng lặng. Không còn ai có thể giúp tôi học môn đại số, không còn ai chiêm ngưỡng chiếc áo khoác mới hay bảo tôi lại đây ôm cha một cái nào, hoặc tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy tôi cao bổng lên quá nhanh. Khi quay về từ một địa danh nào đó có tên ghi trên tấm bản đồ châu Âu treo trên tường phòng ăn, người cha toát ra hương vị của những thời đại và những nơi chốn xa lạ, mùi gia vị và sự mệt mỏi. Chúng tôi đã từng đi nghỉ ở Paris và Rome, chăm chú quan sát các địa điểm mà cha nghĩ tôi nên xem, nhưng tôi chỉ khao khát được đến những nơi mà cha thường biệt tăm ở đó, những chốn kỳ lạ cổ xưa mà tôi chưa từng đến bao giờ.



Khi cha đi công tác, tôi chỉ đi học rồi lại về nhà, vứt đánh bịch chiếc cặp lên chiếc bàn bóng láng kê ngoài sảnh. Cả bà Clay lẫn cha đều không cho tôi ra ngoài vào buổi tối, ngoại trừ vài dịp đặc biệt họ cho phép tôi xem một bộ phim được kiểm duyệt cẩn thận cùng vài đứa bạn cũng được kiểm duyệt cẩn thận, và - thật ngạc nhiên khi hồi tưởng lại - tôi chưa bao giờ xem thường những quy định này. Dù sao tôi cũng thích sự cô độc, đó là môi trường mà tôi đã lớn lên, đã thoải mái ngụp lặn trong đó. Tôi xuất sắc trong học tập nhưng trong cuộc sống xã hội thì không. Bọn con gái cùng tuổi làm tôi kinh sợ, đặc biệt cái đám sành điệu ăn nói đanh đá, hút thuốc luôn mồm trong nhóm con cái gia đình ngoại giao chúng tôi - ở bên bọn chúng, tôi luôn cảm thấy chiếc váy mình đang mặc quá dài hoặc quá ngắn, hoặc mình nên mặc một thứ gì đó khác hẳn. Đám con trai thì làm tôi bối rối, mặc dù tôi cũng mơ hồ tơ tưởng đến cánh đàn ông. Thực ra, tôi thấy hạnh phúc nhất khi được ở một mình trong thư viện của cha, một căn phòng lớn và trang nhã ở tầng một trong nhà.



Thư viện của cha có lẽ một thời từng là phòng khách, nhưng một khi cha ngồi xuống thì chỉ là để đọc sách, nên ông xem trọng một thư viện lớn hơn một phòng khách lớn. Từ lâu, cha đã cho tôi được tự do sử dụng bộ sưu tập của ông. Suốt những lần cha vắng mặt, tôi ngồi làm bài tập hàng giờ đồng hồ tại chiếc bàn gỗ dái ngựa hoặc lục lọi trên các kệ sách kê dọc tường. Sau này, tôi hiểu đó là vì cha hoặc suýt quên mất có thứ gì trên các ngăn trên cùng - hoặc nhiều khả năng hơn - cho rằng tôi sẽ không bao giờ có thể với tới đó, nên một đêm khuya nọ tôi đã lấy xuống không chỉ một bản dịch cuốn Kama Sutra mà còn cả một cuốn sách cũ hơn thế nhiều và một phong bì có chứa những trang giấy ố vàng.



Thậm chí đến nay, tôi vẫn không thể nói điều gì đã khiến tôi kéo chúng xuống. Nhưng hình ảnh mà tôi đã nhìn thấy ở giữa cuốn sách kia, cái mùi vị của năm tháng bốc lên từ đó, và phát hiện của tôi rằng những tờ giấy kia là những lá thư riêng, tất cả đều lôi cuốn óc tò mò của tôi dữ dội. Tôi biết mình không nên lục lọi những giấy tờ riêng tư của cha, hoặc của bất kỳ ai khác, vả lại tôi cũng sợ bà Clay có thể bất chợt vào phòng để lau chùi chiếc bàn không một chút bụi kia - đó hẳn là điều đã khiến tôi phải ngoái nhìn lại cửa ra vào. Nhưng tôi không thể cưỡng lại việc được cầm lấy lá thư trên cùng, đọc đoạn đầu tiên của nó trong lúc vẫn đứng bên giá sách.



Tháng Mười hai năm 1930



Cao đẳng Trinity, Oxford
“Một cuốn sách?” Cha vẫn dịu dàng, tìm kiếm trong cốc một giọt trà cuối cùng, chỉ nghe một cách lơ đãng.



“Chúng có vẻ… cuốn sách đó rất cũ, ở giữa có in hình một con rồng.”



Cha ngồi nghiêng về phía trước, thinh lặng, rồi rõ ràng cha rùng mình. Thái độ kỳ lạ này đánh động tôi ngay tức khắc. Nếu đây lại là một câu chuyện, hẳn nó sẽ chẳng giống bất kỳ câu chuyện nào mà cha đã từng kể với tôi. Cha liếc nhìn tôi dưới hàng lông mày bạc, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy cha có vẻ vô cùng buồn rầu và chán nản.



“Cha giận à?” đến lượt tôi cũng nhìn vào tách trà của mình.



“Không đâu, con yêu.” Cha thở ra thật dài, một âm thanh nghe như nỗi sầu khổ nào đó đang được khơi gợi lại. Cô hầu bàn tóc vàng nhỏ nhắn lại rót đầy những chiếc tách rồi để chúng tôi lại một mình, và một cách khó nhọc, cha bắt đầu.



Chú thích:



1. Tiếng Latin trong nguyên tác: mãi mãi bao giờ cũng vậy.



2. Tiếng Tây Ban Nha: nghệ thuật ăn ngon, nghệ thuật ẩm thực, còn chỉ nhà hàng, quán ăn ngon.