Truy Tìm Dracula
Chương 10 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
Là một người trưởng thành, tôi luôn biết cái di sản kỳ lạ mà thời gian mang lại cho những người hay đi đây đi đó: khao khát tìm về nơi chốn nào đó lần thứ hai, chủ động tìm lại những gì mà trước đó mình đã tình cờ gặp, nắm bắt lại cái cảm giác khám phá. Thậm chí đôi khi chúng ta về lại một nơi chốn mà tự bản thân nó vốn chẳng có gì đặc biệt - chúng ta tìm về đơn giản chỉ vì nhớ nó. Khi chúng ta tìm lại được thì, lẽ dĩ nhiên, mọi thứ đều đã thay đổi. Cánh cửa đơn sơ kia vẫn còn đó, nhưng đã nhỏ hơn nhiều; ban ngày trời u ám chứ không rực rỡ; đang là mùa xuân chứ chẳng phải mùa thu; và ta cô đơn một mình chứ không phải ở cùng ba người bạn. Hoặc tệ hơn, phải ở với cả ba người bạn thay vì được ở một mình.
Những lữ khách trẻ tuổi thường ít biết đến hiện tượng này, nhưng trước khi chính mình trải qua kinh nghiệm này, tôi đã nhìn thấy nó trong cha, tại tu viện Thánh Matthieu, tỉnh Pyrénées-Orientales. Tôi cảm nhận ở cha, đúng hơn là nhận ra rõ ràng, bí ẩn của sự tái diễn, biết rằng cha đã hiện diện ở đây ba năm trước. Và, một cách kỳ lạ, nơi chốn này khiến cha thành ra lơ đãng theo một cách mà không một nơi nào khác chúng tôi từng viếng thăm có thể làm được. Cha đã đến khu vực Emona một lần và Ragusa nhiều lần trước chuyến đi này. Cha đã đến thăm ngôi biệt thự bằng đá của Massimo và Giulia và từng cùng vui vẻ ăn tối với họ nhiều lần vào những năm trước. Nhưng tại tu viện Thánh Matthieu này, tôi cảm thấy cha thực sự khao khát muốn tìm về nơi chốn này, luôn nghĩ đến nó hàng ngàn hàng ngàn lần vì một nguyên nhân nào đó tôi không thể tìm ra, luôn hình dung đến nó mà không thổ lộ cùng ai. Hiện tại cha không nói gì với tôi, ngoại trừ những lúc lên tiếng nhắc nhở ở mỗi khúc quanh, trước khi con đường chạy ngược lên rồi đâm vào bức tường tu viện, hoặc báo cho biết - một lát sau - cánh cửa nào dẫn vào điện thờ, hành lang, hoặc - sau cùng - khu hầm mộ. Việc cha nhớ chi tiết đến nhường này chẳng có gì lạ với tôi; trước đây tôi từng thấy cha đến đúng từng cánh cửa mình đã đi qua trong những ngôi nhà thờ cổ kính nổi tiếng, hoặc quẹo chính xác vào một nhà ăn cổ xưa, hoặc dừng lại mua vé tại đúng trạm bảo vệ trên đúng con đường dẫn vào có rải sỏi và râm bóng cây, hoặc thậm chí còn nhắc lại được chính xác nơi ông đã từng thưởng thức ly cà phê đậm đà nhất.
Nhưng lần này ở tu viện Thánh Matthieu có khác: cha như lo lắng hơn, gần như chỉ liếc nhanh qua một lượt các bức tường và lối đi hành lang. Thay vì làm ra vẻ nói với chính mình, “A, còn cái khung tam giác rất đẹp trên các cánh cửa nữa; cha nghĩ mình nhớ nó ở phía này mà,” có vẻ như cha đang kiểm tra lại những hình ảnh mà lẽ ra nhắm mắt ông cũng phải mô tả được. Tôi dần hiểu ra, thậm chí trước cả khi chúng tôi leo qua những khoảnh đất dốc, nằm dưới bóng mát của những cây bách tùng, dẫn đến lối vào chính, rằng những gì ông nhớ về nơi này không phải là chi tiết kiến trúc, mà là những sự kiện.
Một tu sĩ mặc bộ quần áo dài màu nâu đứng bên cạnh cánh cửa gỗ, im lặng trao những tập quảng cáo cho du khách. “Như cha đã nói, tu viện này vẫn còn đang hoạt động,” cha nói, giọng bình thường. Cha đeo kính râm vào, dù bức tường tu viện đã phủ lên chúng tôi một bóng mát gần như đen kịt. “Người ta giữ không để các đám đông gây huyên náo, bằng cách chỉ cho khách đến tham quan vài giờ mỗi ngày.” Khi chúng tôi đến gần vị tu sĩ, cha mỉm cười đưa tay ra xin một tập quảng cáo. “Merci beaucoup - Cám ơn nhiều, chúng tôi chỉ xin một cuốn thôi,” cha nói bằng thứ tiếng Pháp lịch lãm. Nhưng lần này, bằng cái linh cảm chính xác của con cái vốn thường có đối với cha mẹ, tôi biết, thậm chí còn hơn cả chắc chắn, là trước đây cha đã không chỉ đơn thuần có mặt ở đây, với máy chụp ảnh trong tay. Lần trước cha đã không ‘tham quan du lịch’ đúng như nghĩa của nó, dù cho ông biết rõ các thông tin chỉ dẫn lịch sử-nghệ thuật trong sách hướng dẫn. Thay vì vậy, có chuyện gì đó, tôi cảm thấy chắc chắn, đã xảy đến với cha ở nơi này.
“Đây là gian giữa của ngôi nhà thờ đầu tiên,” cha lại giải thích, vu vơ, giọng hoàn toàn bình thường. Khi giới tu sĩ phát triển mạnh hơn và có thể tiếp tục việc xây dựng, họ chỉ bung lên cao và dựng một nhà thờ mới, ngay trên nóc nhà thờ cũ.” Ánh nến tỏa ra từ các chân nến bằng đá đặt trên những cây cột nặng nề xua đi phần nào cái bóng tối lạnh lẽo. Một cây thánh giá khắc chạm thẳng vào tường phía sau chính điện, lơ lửng như một cái bóng phía trên bệ thờ hoặc cỗ quan tài đá - thật khó mà xác định rõ cái nào - đặt dưới mái vòm chánh điện. Dọc theo tường của khu hầm mộ còn có hai hoặc ba cỗ quan tài đá khác, nhỏ và thô thiển, không có gì đáng để ý. Cha hít vào một hơi dài, nhìn quanh cái hang lạnh lẽo trong lòng đá ấy. “Nơi an nghỉ của vị tu sĩ sáng lập và nhiều tu sĩ khác sau này. Vậy là xong chuyến du lịch của chúng ta. Đi ăn trưa thôi.”
Tôi dừng lại trên đường đi ra. Cảm giác thôi thúc muốn hỏi những gì cha biết về tu viện Thánh Matthieu, cả những gì cha nhớ, chợt ập đến với tôi như một cơn sóng, gần như một nỗi kinh hoàng. Nhưng tấm lưng cha, bành ra trong tấm áo khoác lanh đen như muốn nói thật rõ ràng: “Đợi đã. Mọi thứ đều có thời điểm của nó.” Tôi liếc nhanh cỗ quan tài đá ở đầu kia ngôi nhà thờ cổ. Một hình dạng thô thiển, lạnh lẽo trong một thứ ánh sáng mờ mờ. Bất kỳ cái gì nó che giấu bên trong cũng đã thuộc về quá khứ, và việc phỏng đoán sẽ chẳng giúp phát hiện được gì.
Nhưng tôi đã biết một điều khác, không cần phải phỏng đoán. Câu chuyện mà tôi sẽ được nghe trong buổi ăn trưa trên sân thượng tu viện - một khoảng hõm vào vừa khéo bên dưới khu cư ngụ của các tu sĩ - có thể hóa ra lại là về một nơi chốn nào đó khác, rất xa nơi này, nhưng cũng như cuộc viếng thăm này của chúng tôi, câu chuyện đó chắc chắn sẽ là một bước nữa hướng tới nỗi sợ hãi mà tôi đã bắt đầu thấy bao trùm lấy cha. Tại sao cha không muốn kể cho tôi nghe về việc thầy Rossi mất tích cho đến khi ông Massimo lỡ miệng nói ra? Tại sao cha tức giận, mặt trắng bệch, khi viên quản lý nhà hàng kể với chúng tôi một truyền thuyết về những xác chết sống? Bất kỳ điều gì ám ảnh ký ức của cha đều bị nơi chốn này phơi bày ra một cách sống động, mà nơi này là một chốn thiêng liêng hơn là đáng sợ, tuy nhiên lại đáng sợ đối với cha, đến mức cha phải gồng mình lên để kiềm chế. Tôi phải làm việc, như giáo sư Rossi đã làm, để thu thập những manh mối của riêng mình. Tôi đã trở nên sáng suốt hơn theo dòng câu chuyện này.