Truy Tìm Dracula

Chương 27 :

Ngày đăng: 13:57 19/04/20


Barley ngồi trầm ngâm trong cabin của chúng tôi, cằm tì lên đôi bàn tay có những ngón tay thon dài, cố gắng nhớ lại chuyện gì đó về thầy James - nhưng chỉ hoài công. Cuối cùng anh nhìn tôi, và tôi chợt sững sờ trước vẻ đẹp gương mặt anh, một khuôn mặt xương xương, tươi tắn ngay cả khi đang nghiêm nghị. Nếu không có vẻ vui nhộn khá lộ liễu kia, đó có thể là gương mặt của một thiên thần, hay của một vị tu sĩ khắc kỷ trong một tu viện vùng Northumberland. Lúc đó, tôi chỉ lờ mờ cảm nhận những so sánh này, phải đến sau này chúng mới hiện ra rõ ràng với tôi.



“Được rồi,” cuối cùng anh thốt lên, “như anh nhận thấy, có hai khả năng. Hoặc em đã bồng bột, trong trường hợp này anh sẽ phải theo sát và đưa em trở về nhà an toàn, ngược lại nếu không phải thế, trong trường hợp này em sẽ phải đối đầu với rất nhiều rắc rối, và như vậy, kiểu gì anh cũng vẫn phải sát cánh với em. Mai anh phải dự một bài giảng, nhưng anh sẽ tìm cách đối phó.” Anh thở dài liếc nhìn tôi, ngả người tựa vào thành ghế. “Anh nghĩ Paris không phải là điểm đến cuối cùng của em. Em có thể cho anh biết sau đó em sẽ đi đâu chứ?”



“Nếu tại cái bàn dễ chịu trong quán ăn ở Istanbul này, giáo sư Bora tát vào mặt cha và Helen mỗi người một cái, có lẽ chúng ta cũng không kinh ngạc bằng khi nghe ông ta tiết lộ cái ‘sở thích quái gở’ của mình. Tuy nhiên đây là một cái tát có tác dụng tốt; lúc này chúng ta đã hoàn toàn tỉnh táo. Trạng thái lừ đừ sau chuyến bay dài không còn nữa, và cùng với sự tỉnh táo này là cảm giác muốn tìm kiếm thêm thông tin về ngôi mộ của Dracula đến tuyệt vọng. Bọn ta đã đến đúng nơi. Có lẽ - tim cha đập rộn lên, không chỉ vì hy vọng - có lẽ mộ của Dracula nằm ngay tại Thổ Nhĩ Kỳ.



“Cha chưa từng nghĩ thế bao giờ, nhưng giờ cha nghĩ có thể điều đó có lý. Xét cho cùng, ở đây thầy Rossi đã từng bị một trong những tên tay sai của Dracula gay gắt cảnh cáo. Có thể nào lũ ma cà rồng không chỉ canh giữ trung tâm lưu trữ mà còn cả ngôi mộ? Sự hiện diện rõ ràng của lũ ma cà rồng mà Turgut đang đề cập phải chăng chỉ là một hệ lụy của việc bọn đệ tử của Dracula vẫn liên tục chiếm cứ thành phố này? Cha rà soát một lượt những gì đã biết về sự nghiệp và huyền thoại về Vlad Kẻ Xiên Người. Nếu đã từng bị giam giữ ở nơi này trong thời trai trẻ, liệu có thể sau khi chết hắn quay trở lại nơi đã học những bài học vỡ lòng về nghệ thuật hành hạ con người? Có thể hắn đã có một tâm trạng kiểu như hoài cổ về nơi này, giống như người ta thường lui về nghỉ hưu ngay tại nơi họ đã lớn lên. Và nếu có thể tin được các ghi chép về thói quen của ma cà rồng trong tiểu thuyết của Stoker, thì tên quỷ dữ này chắc chắn đã có thể rời bỏ nơi chốn nào đó để đến một nơi khác, xây mộ cho mình ở bất cứ nơi nào hắn thích; trong cuốn tiểu thuyết đó, hắn đã nằm trong quan tài được di chuyển đến nước Anh. Vậy tại sao hắn lại không thể di chuyển đến Istanbul cơ chứ, vào ban đêm, sau khi chết như một con người, di chuyển vào ngay trung tâm của chính đế quốc của đoàn quân đưa hắn tới chỗ chết? Xét cho cùng, đây cũng là một sự trả thù thích đáng đối với đế chế Ottoman.



“Nhưng cha chưa thể nêu ra với giáo sư Turgut bất kỳ câu hỏi nào. Helen và cha chỉ vừa mới gặp người đàn ông này, và cha vẫn còn băn khoăn tự hỏi liệu có thể tin được ông ta hay không. Ông ta có vẻ thành thật, nhưng việc ông ta chuyển sang ngồi cùng bàn chúng ta rồi tiết lộ cái ‘sở thích’ ấy vẫn quá kỳ quặc để có thể chấp nhận ngay. Bây giờ Turgut đang trò chuyện với Helen, cuối cùng cô cũng đã chịu nói chuyện với ông ta. ‘Không, thưa cô, thực ra tôi không biết “mọi thứ” về chuyện Dracula đâu. Thú thật, kiến thức của tôi còn lâu mới đủ sức thuyết phục. Nhưng tôi ngờ là hắn đã có một ảnh hưởng quan trọng đối với thành phố chúng tôi, ở khía cạnh độc ác xấu xa, và chính vì vậy tôi vẫn còn đang tiếp tục nghiên cứu vấn đề. Còn các bạn, những người bạn của tôi?’ Ông ta đưa ánh mắt sắc sảo, liếc nhìn từ Helen qua cha. ‘Dường như các bạn có phần quan tâm đến chủ đề của tôi. Chính xác thì luận văn của anh bạn là về chủ đề gì, anh bạn trẻ?’



“ ‘Chủ nghĩa trọng thương của Hà Lan vào thế kỷ mười bảy,’ cha ấp úng trả lời. Dù sao chăng nữa nghe chẳng tự nhiên chút nào, rồi cha bắt đầu băn khoăn tự hỏi liệu đây có phải là một cố gắng khá nhạt nhẽo. Xét cho cùng, các thương nhân Hà Lan, hàng thế kỷ qua cũng đâu có rình mò tấn công và đánh cắp linh hồn bất tử của con người.



“ ‘À.’ Cha nghĩ Turgut có vẻ bối rối. ‘Chà,’ cuối cùng ông ta thốt lên, ‘nếu các bạn cũng quan tâm đến lịch sử Istanbul, thì sáng mai các bạn có thể đến cùng tôi đi chiêm ngưỡng bộ sưu tập của Quốc vương Mehmed. Ông ta là một bạo chúa tuyệt vời - đã sưu tập nhiều thứ rất thú vị, ngoài ra còn có các tài liệu ưa thích của tôi. Trễ quá rồi, bây giờ tôi phải về nhà với vợ đây, nếu không bà ấy sẽ lo lắng muốn chết mất.’ Ông ta mỉm cười, tựa như chờ mong được thấy tâm trạng của bà vợ vui vẻ chứ không phải ngược lại. ‘Cũng như tôi, chắc chắn bà ấy sẽ mong các bạn đến dùng bữa tối cùng chúng tôi vào ngày mai.’ Cha ngẫm nghĩ về lời mời này một lúc lâu; chắc hẳn các bà vợ người Thổ vẫn còn ngoan ngoãn dễ bảo như các cung nữ hậu cung trong huyền thoại. Hay ông ta chỉ hàm ý vợ ông ta cũng hiếu khách như ông? Cha chờ tiếng khịt mũi của Helen, nhưng cô vẫn ngồi im, giương mắt nhìn hai người bọn ta. ‘Thế nhé, các bạn…’ giáo sư Turgut vừa nói vừa thu xếp đứng lên ra về. Cha không biết từ đâu đó ông ta đã rút ra và nhét một ít tiền dưới đĩa thức ăn của mình. Sau đó, nâng ly chúc mừng bọn ta lần cuối và uống cạn phần trà còn lại. ‘Tạm biệt và hẹn gặp lại ngày mai.’



“ ‘Chúng tôi sẽ gặp lại ông ở đâu?’ cha hỏi.



“ ‘Ồ, tôi sẽ quay trở lại đây để đón các bạn. Chính xác vào lúc mười giờ sáng ở đây, được chứ? Tốt lắm. Chúc các bạn một buổi tối vui vẻ.’ Ông ta cúi chào rồi bước ra. Một phút sau, cha mới nhận ra ông ta hầu như chưa hề ăn bữa tối, đã trả tiền ăn cho mình và cho cả chúng ta, và đã để lại cho bọn ta một cái bùa chống lại Con Mắt Quỷ, đang ngời sáng giữa tấm khăn trải bàn trắng toát.



“Tối hôm đó cha ngủ như chết, như người ta thường nói, sau chuyến du hành và cuộc tham quan mệt bã người. Đã sáu giờ ba mươi khi những âm thanh của thành phố đánh thức cha dậy. Căn phòng nhỏ lờ mờ sáng. Ngay khi vừa tỉnh ngủ, cha nhìn quanh những bức tường quét vôi trắng, đồ đạc trong phòng trông đơn giản và có gì đó xa lạ, ánh sáng phản chiếu yếu ớt trên tấm gương treo phía trên giá rửa mặt, cha cảm thấy đầu óc lẫn lộn lung tung. Cha nghĩ đến việc lưu trú của thầy Rossi ở đây - tại Istanbul, thời gian ông cư ngụ tại một khách sạn nhỏ nào đó - nó nằm ở đâu nhỉ? - nơi hành lý của ông bị lục soát và các tấm bản đồ phác thảo quý giá bị lấy mất, cha hồi tưởng lại việc đó cứ như chính mình đã hiện diện ở đó, hoặc đang tự trải qua cảnh ấy ngay lúc này. Một lát sau cha mới nhận ra tất cả mọi thứ trong phòng đều bình thường, ngăn nắp; chiếc va li vẫn để trên bàn, không bị xáo trộn, và - quan trọng hơn - cái cặp xách với các tài liệu quý giá bên trong vẫn nằm nguyên bên giường ngủ, nơi cha có thể với tay đến, chạm vào nó. Ngay cả trong giấc ngủ, không hiểu vì sao cha vẫn cảm nhận được cuốn sách cổ xưa kia, im lặng nằm trong đó.




“Ông bạn thủ thư của Turgut rút ra một xâu chìa khóa, tra một chìa vào ổ. Cha gần như muốn bật cười, nhớ đến danh mục thẻ hiện đại ở trường nhà, có thể giúp truy cập hàng ngàn cuốn sách quý hiếm trong hệ thống thư viện của trường. Cha chưa bao giờ tưởng tượng phải dùng đến một cái chìa khóa cũ kỹ để tiến hành công việc nghiên cứu. Ổ khóa bật lên một tiếng tách. ‘Được rồi,’ Turgut thì thầm, và người thủ thư rút lui. Turgut cười với từng người chúng ta - những nụ cười buồn bã, cha nghĩ - và mở nắp hộp lên.”



Trong tàu, Barley vừa đọc xong hai lá thư đầu tiên của cha. Tôi cảm thấy nhói đau khi nhìn thấy những lá thư mở rộng trong đôi tay anh, nhưng tôi biết Barley sẽ tin vào tiếng nói có cơ sở của cha, dù chỉ tin phân nửa cái giọng điệu kém thuyết phục của tôi. “Anh đã từng đến Paris rồi chứ?” tôi lên tiếng hỏi, một phần để che giấu cảm xúc của mình.



“Chắc là rồi,” Barley đáp, giọng vẫn còn tức giận. “Anh đã học ở đó một năm trước khi vào đại học. Mẹ anh muốn anh giỏi tiếng Pháp hơn.” Tôi rất muốn hỏi về mẹ anh và lý do vì sao bà yêu cầu con trai mình phải đạt được một thành tựu thú vị như vậy, cũng như cảm giác khi có mẹ thì thế nào, nhưng Barley đã lại chúi mũi vào lá thư. “Cha em chắc hẳn là một giảng viên có tài,” anh ta trầm ngâm. “Những bức thư này thú vị hơn nhiều so với những gì bọn anh được học tại Oxford.”



Câu nói đó mở ra trước mắt tôi một lãnh địa khác. Các bài giảng tại Oxford nhàm chán lắm sao? Có thể như vậy được sao? Barley có nhiều thứ mà tôi muốn biết, một sứ giả từ thế giới rộng lớn đến nỗi hiện giờ tôi vẫn chưa thể hình dung. Lần này, dòng suy tưởng của tôi bị cắt ngang bởi một nhân viên của đoàn tàu vội vã đi dọc lối đi, băng qua trước cửa cabin của chúng tôi. “Bruxelles!” ông ta kêu lên. Tàu chạy chậm dần, vài phút sau, qua cửa sổ tàu chúng tôi nhìn thấy ga Brussels; các nhân viên hải quan bước lên tàu. Bên ngoài mọi người hối hả lên xuống tàu và lũ bồ câu đang mải mê săn tìm các mẩu thức ăn thừa rơi rớt trên sân ga.



Có thể vì thầm yêu mến loài bồ câu nên tôi đã nhìn chúng trong đám đông chăm chú đến nỗi chợt nhận ra một hình dáng đang đứng bất động. Một phụ nữ, cao, mặc một chiếc áo khoác đen dài, lặng lẽ đứng trên sân ga. Chiếc khăn đen choàng qua đầu, quấn quanh một gương mặt trắng toát. Khoảng cách khá xa để có thể nhìn rõ được nét mặt, nhưng tôi thoáng thấy cặp mắt đen, và một cái miệng đỏ choét dị thường - son môi màu chói, chắc thế. Có gì đó khác thường trong bộ quần áo đen kịt như một hình chiếu bóng của bà ta; giữa những chiếc váy ngắn và bốt cao gót thời thượng dị hợm, bà ta mang đôi giày cao gót mũi nhọn màu đen.



Nhưng đặc điểm trước tiên làm tôi chú ý đến bà ta, và cứ phải chú ý cho đến lúc đoàn tàu lại chuyển bánh, là thái độ cảnh giác của bà ta. Bà ta chăm chú quan sát đoàn tàu của chúng tôi, từ đầu đến cuối. Theo bản năng, tôi nép người ra sau, tránh khỏi cửa sổ, Barley liền nhìn tôi với ánh mắt thắc mắc. Rõ ràng người phụ nữ đó không nhìn thấy chúng tôi, dù bà ta đã bước một bước bâng quơ về hướng chúng tôi. Sau đó, có vẻ như bà ta thay đổi ý định, quay sang quan sát một đoàn tàu khác vừa đỗ lại ở bên kia boong ke. Một vẻ gì đó trong cái lưng thẳng đuột, cứng đơ của bà ta làm tôi cứ phải nhìn chăm chăm cho đến khi đoàn tàu ra khỏi nhà ga, và bà biến mất trong đám đông, tựa như chưa bao giờ hiện hữu.



Chú thích:



1. Các trò chơi kiểu đổ xúc xắc rồi di chuyển quân cờ trên một tấm bảng lớn (BT).



2. Ataturk (tên đầy đủ là Mustapha Kemal Ataturk (1881-1938): vị tổng thống đầu tiên (1923-1938) và cũng là người sáng lập nền cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ với chính sách thế tục hóa xã hội, giảm nhẹ ảnh hưởng của đạo Hồi.