Truy Tìm Dracula

Chương 29 :

Ngày đăng: 13:57 19/04/20


Bước xuống một đoàn tàu, dù đó là một chuyến tàu hiện đại, để vào Ga Bắc, cái vũ đài vĩ đại của những chuyến du hành, với các khung sắt và thủy tinh cũ kỹ vươn thẳng lên trời, với vẻ đẹp của không gian hình mái vòm tràn đầy ánh sáng, chúng tôi đã đến Paris. Barley và tôi xuống tàu, tay xách túi, đứng lặng yên một lúc lâu và say sưa ngắm nhìn. Ít nhất thì đó cũng là những gì tôi đang làm, dù đã từng ở đó hoặc đi ngang qua nơi chốn này nhiều lần trong những chuyến du hành cùng cha. Nhà ga vang dội âm thanh của những đoàn tàu đang thắng lại, tiếng người trò chuyện, tiếng bước chân, tiếng còi hiệu, tiếng đập cánh vội vã của lũ bồ câu, tiếng leng keng của những đồng xu. Một ông già đầu đội mũ nồi đen khoác tay một thiếu nữ trẻ đi ngang qua chúng tôi. Cô gái có mái tóc đỏ cắt rất khéo và đôi môi tô son hồng, trong một thoáng, tôi hình dung mình đang đổi chỗ với cô gái. Ôi, để trông được như vậy, để được là dân Paris, để được là người lớn, để được mang bốt cao gót, có ngực thực sự, và có một nghệ sĩ già dặn lịch thiệp bên cạnh! Nhưng tôi chợt nghĩ, ông già kia có thể là cha cô gái, và bất chợt lại cảm thấy rất đỗi cô đơn.



Tôi quay sang Barley, hình như anh đang thưởng thức mùi vị hơn là phong cảnh. “Trời ơi, anh đói bụng quá,” anh càu nhàu. “Nếu đã đến đây thì ít nhất chúng ta phải ăn cái gì đó ngon ngon chứ.” Anh phóng nhanh về phía một góc nhà ga, tựa như đã nằm lòng đường đi lối lại ở đây; thật vậy, hóa ra không những biết rõ đường đi mà Barley còn rất rành món giăm bông cắt lát mỏng ăn với mù tạt, và chẳng mấy chốc bọn tôi đã đang thưởng thức hai ổ sandwich to tướng gói trong bao giấy trắng. Thậm chí Barley không thèm ngồi xuống chiếc ghế dài mà tôi vừa tìm được.



Tôi cũng đói, nhưng lo nghĩ nhiều hơn về những việc phải làm kế tiếp. Giờ chúng tôi đã xuống tàu, Barley có thể đến một trạm điện thoại công cộng bất kỳ để gọi về cho bà Clay hoặc thầy James, có khi gọi cả một đoàn cảnh sát đến còng tay tống tôi trở về Amsterdam. Tôi lo lắng nhìn chừng anh, nhưng hầu như khuôn mặt anh lúc nào cũng khuất sau ổ bánh sandwich. Khi anh ngừng ăn để uống chút nước cam, tôi tranh thủ nói ngay, “Anh Barley, anh làm ơn giúp em một việc nhé.”



“Chuyện gì nữa đây?”



“Làm ơn đừng gọi bất kỳ cuộc điện thoại nào. Ý em là, anh Barley, xin đừng bắt em về nhà. Từ đây, em sẽ đi xuống miền Nam, không hề gì đâu. Anh thấy đó, em không thể về nhà khi chưa biết cha mình đang ở đâu và có chuyện gì đang xảy ra với cha, anh hiểu chứ?”



Anh hớp một ngụm nước cam, vẻ nghiêm nghị, “Anh hiểu.”



“Làm ơn nhé, anh Barley.”



“Em xem anh là gì chứ?”



“Em không biết,” tôi đáp, có phần ngơ ngác. “Em nghĩ anh giận về việc em bỏ trốn, và có thể vẫn cảm thấy cần phải mách người lớn.”



“Em nghĩ xem,” Barley nói. “Thực sự thẳng thắn mà nói thì ngay bây giờ anh có thể lôi theo em cùng trên đường trở về với các bài giảng ngày mai - và một màn trách mắng ra trò của thầy James. Hoặc thay vì vậy, ở đây, để sự ga lăng và trí tò mò thúc đẩy, bốc đồng đi cùng một cô gái đến tận miền Nam nước Pháp. Em nghĩ anh sẽ bỏ lỡ cơ hội này sao?”



“Em không biết,” tôi lặp lại, giọng tỏ ra biết ơn hơn.


“Turgut, có vẻ bớt lơ đãng hơn cha, vội chạy đến cửa và khuất dạng vào phòng giải lao. Sau đó ông ta quay trở lại, lắc đầu. ‘Hắn biến mất rồi,’ ông ta nặng nề nói. ‘Tôi không thấy dấu vết của hắn ở ngoài đường. Hắn đã biến vào đám đông.’



“Ông thủ thư Erozan có vẻ như đang xin lỗi, Turgut nói chuyện với ông ta thêm một lúc rồi quay sang chúng ta. ‘Trong quá trình nghiên cứu, liệu có lý do nào để các bạn nghĩ rằng đã bị theo dõi đến đây?’



“ ‘Bị theo dõi?’ Có đủ mọi lý do để nghĩ như vậy, nhưng cha không biết chính xác là kẻ nào.



“Turgut nhìn cha, ánh mắt sắc sảo, cha nhớ lại sự xuất hiện của ả Gypsy tại bàn ăn của cha và Helen tối hôm qua. ‘Anh bạn thủ thư của tôi nói là người đàn ông kia muốn xem các tài liệu mà chúng ta đang nghiên cứu, gã đã giận dữ khi nhận thấy chúng đang bị người khác sử dụng. Ông ta nghĩ gã là người nước ngoài vì hắn nói tiếng Thổ bằng một giọng lơ lớ. Đó là lý do vì sao tôi hỏi có ai đó theo dõi các bạn đến đây hay không. Các bạn à, chúng ta hãy rời khỏi đây, nhưng phải cẩn thận coi chừng. Tôi sẽ nhờ ông bạn tôi canh giữ các tài liệu này, và lưu ý đến gã đàn ông kia hoặc bất kỳ ai khác để mắt đến chúng. Ông ta sẽ cố tìm hiểu hắn là ai nếu hắn quay trở lại. Có lẽ hắn sẽ quay lại ngay nếu chúng ta rời khỏi nơi này.’



“ ‘Còn những tấm bản đồ!’ Cha cảm thấy lo lắng vì phải để lại những vật quý giá trong chiếc hộp này. Hơn nữa, chúng ta đã biết được gì đâu? Thậm chí chúng ta chưa giải được sự bí ẩn của ba tấm bản đồ, ngay cả khi đã đứng ở đó, nhìn chúng hiện diện sờ sờ một cách kỳ lạ trên chiếc bàn của thư viện.



“Turgut lại quay về phía ông Erozan, và một nụ cười, một tín hiệu hiểu biết lẫn nhau dường như đang được gửi đi giữa họ. ‘Đừng lo, giáo sư ạ,’ Turgut nói với cha. ‘Tôi đã tự tay sao chép lại hết mọi thứ này, và các bản sao đã được cất giữ an toàn tại nhà tôi. Hơn nữa, ông bạn tôi sẽ không cho phép bất kỳ chuyện gì xảy ra đối với những bản gốc này. Các bạn có thể tin tôi.’



“Cha muốn tin. Helen đang kín đáo quan sát hai người bạn mới quen của chúng ta, cha băn khoăn tự hỏi cô suy đoán được gì sau tất cả việc này. ‘Vậy thì ổn rồi,’ cha nói.



“ ‘Đi nào, các bạn.’ Turgut bắt đầu dọn dẹp tài liệu, nhẹ nhàng nâng niu chúng đến mức cha nghĩ mình không thể nào làm được như vậy. ‘Có vẻ chúng ta còn nhiều điều cần bàn luận riêng với nhau. Tôi sẽ đưa các bạn về nhà tôi, chúng ta trò chuyện ở đó. Tôi cũng sẽ cho các bạn xem một số tư liệu khác mà tôi đã thu thập được về chủ đề này. Không nên bàn những chuyện này ở ngoài đường. Chúng ta sẽ rời khỏi nơi đây, càng lộ liễu càng tốt và’ - ông gật đầu về phía viên thủ thư - ‘chúng ta để lại vị tướng giỏi nhất của mình ở vị trí chiến đấu.’ Ông Erozan bắt tay chúng ta, từng người một, cẩn thận khóa chiếc hộp lại, mang đi và cùng nó biến mất giữa các kệ sách phía sau đại sảnh. Cha nhìn theo cho đến khi ông thủ thư hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt, rồi bất chợt buông một tiếng thở dài. Cha không thể rũ bỏ cái cảm giác là số phận của thầy Rossi vẫn bị che giấu trong chiếc hộp đó - gần như thể, xin Chúa tha thứ, thầy Rossi đã bị chôn vùi trong đó - mà chúng ta không sao cứu ông ra được.



“Sau đó chúng ta ra khỏi tòa nhà, cố tình đứng lồ lộ trên bậc thang trong vài phút, vờ như đang trò chuyện. Dù cha cảm thấy cực kỳ căng thẳng còn Helen thì trông tái nhợt, nhưng Turgut vẫn tỏ ra bình tĩnh. ‘Nếu còn quanh quẩn đâu đây,’ ông ta nói nhỏ, ‘tên ném đá giấu tay nhỏ thó ấy sẽ biết chúng ta sắp ra về.’ Ông chìa cánh tay ra cho Helen, cô khoác lấy cánh tay ấy chả có vẻ gì miễn cưỡng như cha nghĩ, rồi chúng ta cùng nhau ra về, băng qua những con đường đông người qua lại. Đã đến giờ ăn trưa, mùi bánh mì và thịt nướng ngậy lên khắp xung quanh chúng ta, hòa lẫn với một mùi nặng nề khó chịu, có thể đó là mùi than hay mùi dầu cặn, thứ mùi mà đôi lúc cha lại đột ngột nhớ ra, đối với cha đó là một mùi có ý nghĩa như ranh giới của thế giới phương Đông. Cha nghĩ, dù bất kỳ chuyện gì xảy ra tiếp theo, nó cũng sẽ là một bí ẩn khác, cũng như toàn bộ nơi đây - cha nhìn chung quanh vào những gương mặt trong đám đông người Thổ, những chóp nhọn thanh mảnh của các ngọn tháp ở đường chân trời cuối mỗi con đường, những mái vòm cổ xưa giữa những cây sung, những cửa hàng đầy những món hàng kỳ bí - là một bí ẩn. Nhưng bí ẩn lớn nhất trong số ấy một lần nữa lại giày vò trái tim cha đau đớn: thầy Rossi đang ở đâu? Liệu thầy có ở đây, trong thành phố này, hay ở đâu đó xa hơn? Còn sống hay đã chết, hay đang ở giữa sự sống và cái chết?”



Chú thích:



1. Nguyên văn tiếng Pháp: Bureau de change.