Truy Tìm Dracula
Chương 33 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
Khi con tàu tốc hành đi Perpignan đã khuất dạng sau rặng cây óng ánh bạc và những mái nhà trong làng, Barley nói, “Xong, hắn đang ở trên con tàu đó, còn bọn mình thì không.”
“Vâng,” tôi trả lời, “nhưng hắn biết chính xác chúng ta đang ở đâu.”
“Không lâu lắm đâu.” Barley đi về phía cửa sổ quầy bán vé - nơi một ông già dường như đang vừa đứng vừa gà gật - nhưng đã nhanh chóng quay trở lại, có vẻ cố không tỏ ra bức xúc. “Phải đến sáng mai mới có chuyến tàu kế tiếp đến Perpignan,” Barley thông báo lại. “Và cũng đến trưa mai mới có xe buýt đến một thị trấn lớn khác. Chỉ có một phòng cho thuê ở một nông trại cách làng này nửa cây số. Chúng ta có thể ngủ ở đó và quay trở lại đây để đón chuyến tàu sáng mai.”
Tôi chỉ còn nước hoặc nổi điên hoặc òa khóc thôi. “Anh Barley, em không thể chờ đến sáng mai mới đáp tàu đến Perpignan! Chúng ta đã mất quá nhiều thời gian.”
“Ôi, nhưng đâu còn cách nào khác,” Barley đáp lại, giọng cáu kỉnh. “Anh đã hỏi thăm đủ các thứ phương tiện từ taxi, xe hơi, xe tải của nông trại, xe lừa, và cả đi quá giang nữa - em muốn anh làm gì nữa nào?”
Chúng tôi im lặng cuốc bộ vào làng. Đó là buổi chiều muộn của một ngày ấm áp và yên tĩnh, và mọi người mà chúng tôi thấy nơi ngưỡng cửa hay trong các khu vườn đều có vẻ lờ đờ, tựa như họ đang bị bỏ bùa. Khu nông trại chúng tôi đến có một biển hiệu sơn bằng tay ở bên ngoài cùng với một chiếc bàn bày bánh trứng, pho mát và rượu nho. Một người phụ nữ bước ra - chùi hai tay lên tạp dề - và chẳng có vẻ gì ngạc nhiên khi trông thấy chúng tôi. Khi Barley giới thiệu tôi là em gái, bà ta chỉ cười vui vẻ, không hỏi han gì, dù chúng tôi chẳng hề có hành lý. Khi Barley hỏi có phòng cho hai người hay không, bà ta trả lời giọng lí nhí “Oui, oui,”(1) tựa như chỉ nói cho chính mình nghe. Trong sân trại nền đất cứng có lác đác vài khóm hoa, những chú gà đang bươi đất tìm mồi, một dãy thùng xô nhựa dưới mái hiên, những kho thóc và căn nhà bằng đá xúm xít quanh nhau vừa lộn xộn vừa thân tình. Chúng tôi có thể dùng bữa tối trong khu vườn sau nhà, bà chủ nông trại giải thích, và phòng chúng tôi nằm kế cận khu vườn, trong khu vực cổ xưa nhất của khu nhà.
Chúng tôi im lặng đi theo bà chủ nông trại qua căn nhà bếp thấp lè tè vào một chái nhà nhỏ, có lẽ từng là chỗ ngủ của người phụ bếp. Phòng ngủ có sẵn hai giường nhỏ, kê ở hai bức tường đối diện nhau, thật nhẹ nhõm khi nhìn thấy thế, một cái tủ gỗ đựng quần áo. Phòng vệ sinh ở cạnh cửa có bồn cầu và bồn tắm. Mọi thứ trông sạch sẽ không tì vết, rèm được hồ cứng, những bức tranh thêu cũ xưa trên một bức tường đã phai màu vì ánh nắng. Tôi vào phòng tắm và rửa mặt sơ qua bằng nước lạnh trong khi Barley trả tiền cho người phụ nữ.
Khi tôi ra khỏi phòng tắm, Barley rủ tôi đi dạo, có lẽ phải một giờ nữa bà chủ nông trại mới chuẩn bị xong bữa tối cho chúng tôi. Thoạt tiên, tôi không muốn rời khỏi sự che chở của khuôn viên nông trại, nhưng ở bên ngoài, con đường râm mát dưới những tán cây, chúng tôi bước đi bên cạnh những gì còn lại của thứ trước đây chắc hẳn từng là một ngôi nhà rất xinh đẹp. Barley leo qua hàng rào, tôi cũng leo theo. Gạch đá đổ ngổn ngang, dấu tích của những bức tường thành cũ, và một ngọn tháp đổ nát còn sót lại khiến chốn này có một vẻ huy hoàng của thời quá khứ. Vẫn có một ít cỏ khô trong nhà kho he hé cửa, dường như nó vẫn còn đang được sử dụng. Một xà nhà lớn rơi xuống giữa các ngăn chuồng.
Barley ngồi giữa đống đổ nát, nhìn tôi. “Này, anh biết em đang rất điên tiết,” anh châm chọc. “Em chẳng hề màng đến việc anh đã giúp em thoát khỏi mối nguy hiểm trước mắt, nhưng em chỉ nên như thế khi nó không biến thành sự phiền phức với em sau này thôi.”
Sự xấu tính của anh làm cho tôi thoáng cảm thấy như nghẹt thở. “Làm sao anh dám,” rốt cuộc tôi thốt lên và bỏ đi, len lỏi giữa đám đá. Tôi nghe tiếng Barley đứng dậy, bước theo.
“Không lẽ em muốn ở lại trên con tàu đó hay sao?” anh ta hỏi, giọng đã hòa hoãn hơn.
“Dĩ nhiên là không,” tôi trả lời, vẫn không quay mặt lại. “Nhưng cũng như em, anh biết là cha em có thể đã có mặt ở tu viện Thánh Matthieu.”
“Nhưng cái gã đó, là Dracula hay là bất kỳ ai, đã đến đó đâu.”
“Giờ thì hắn đã đi trước chúng ta một ngày rồi,” tôi phản pháo, nhìn sang bên kia cánh đồng. Ngôi nhà thờ làng nhô lên sau một hàng dương ở phía xa xa; tất cả như một bức tranh thôn dã yên bình, chỉ thiếu hình ảnh những chú bò, chú dê.
“Trước hết,” Barley lên giọng (và tôi ghét anh vì cái giọng ưa lên lớp này), “chúng ta không biết gã đàn ông kia là ai. Có thể hắn không phải là Dracula. Theo như các lá thư của cha em thì Dracula phải có đám tay sai chứ, đúng không nào?”
“Thậm chí còn tồi tệ hơn kia,” tôi trả lời. “Nếu gã đó chỉ là một tên tay sai của hắn, vậy thì có lẽ chính bản thân hắn đã có mặt ở tu viện Thánh Matthieu rồi.”
“Hoặc,” Barley tiếp lời, nhưng bỗng im bặt. Tôi biết anh định nói gì, “Hoặc có lẽ hắn đang ở đây, với chúng ta.”
“Cô và cha lại xuống lầu và thả bộ ra phố, như thể đã ngầm đồng ý với nhau trước. ‘Ngay bây giờ thì chả có việc gì phải làm,’ cha trầm ngâm. ‘Phải chờ đến ngày mai mới có kết quả từ ông Turgut và bác cô. Tôi phải nói là luôn cảm thấy khó khăn khi chờ đợi những chuyện như thế này. Trong khi chờ đợi thì chúng ta sẽ làm gì đây?’
“Helen đứng giữa ánh nắng vàng đang sậm màu dần trên phố, suy nghĩ khoảng một phút. Cô đã mang găng tay và đội mũ chỉnh tề trở lại, nhưng ánh mặt trời cuối chiều vẫn làm ánh lên một thoáng màu đỏ trên mái tóc đen tuyền của cô. ‘Tôi muốn nhìn ngắm thành phố thêm nữa,’ rốt cuộc cô cũng lên tiếng. ‘Xét cho cùng, có thể tôi sẽ chẳng bao giờ trở lại chốn này nữa. Liệu chúng ta có nên quay lại thánh đường Hagia Sophia không nhỉ? Chúng ta có thể dạo quanh đó một chút trước bữa tối.’
“ ‘Ừ, tôi cũng thích vậy.’ Cô và cha không nói gì thêm suốt trên đường đến ngôi thánh đường tuyệt mỹ kia, nhưng khi đến gần và lại nhìn thấy những mái vòm, cùng những ngọn tháp chiếm lĩnh toàn bộ cảnh quan đường phố, cha cảm thấy sự im lặng giữa chúng ta còn trở nên sâu sắc hơn, như thể cha và cô càng lúc càng đi sát nhau hơn. Cha băn khoăn tự hỏi liệu Helen có cảm nhận như vậy không, hoặc liệu có phải sức thu hút của ngôi thánh đường đồ sộ kia đã tác động tới thân phận bé nhỏ của chúng ta. Cha vẫn cân nhắc những gì Turgut nói ngày hôm qua - niềm tin của ông ta về việc bằng cách nào đó Dracula đã truyền lại cái tai họa ma cà rồng hút máu trong thành phố lớn này. ‘Helen,’ cha lên tiếng, dù chẳng muốn phá vỡ sự yên tĩnh giữa chúng ta chút nào. ‘Cô không nghĩ hắn được chôn cất tại đây chứ - ở ngay chính Istanbul này? Điều đó giải thích việc Quốc vương Mehmed vẫn lo ngại về hắn dù hắn đã chết? Đúng không?’
“ ‘Hắn? À, vâng.’ Cô gật đầu tựa như đồng ý với việc cha không nhắc đến cái tên đó trên đường phố. ‘Đó là một ý kiến thú vị, nhưng không lẽ Mehmed không biết chuyện này và không lẽ Turgut cũng không tìm ra chứng cứ nào về chuyện đó. Tôi không thể tin người ta có thể che giấu một chuyện như vậy cả nhiều thế kỷ.’
“ ‘Cũng thật khó tin là Mehmed đã cho phép an táng kẻ thù của mình tại Istanbul, nếu ông ta biết được chuyện này.’
“Cô có vẻ như vẫn đang nghiền ngẫm vấn đề. Chúng ta gần như đã đến cổng chính dẫn vào thánh đường Hagia Sophia.
“ ‘Helen,’ cha gọi, giọng dịu dàng.
“ ‘Vâng?’ Cha và Helen dừng lại giữa mọi người, giữa đám khách du lịch và người hành hương chen lấn nhau qua cánh cổng đồ sộ. Cha tiến sát gần lại cô để có thể nói nhỏ, gần như thì thầm vào tai cô.
“ ‘Nếu có khả năng ngôi mộ đó ở nơi này thì có nghĩa là thầy Rossi cũng ở đây.’
“Cô quay lại nhìn vào mặt cha. Đôi mắt rực sáng, vài nếp nhăn của năm tháng và âu lo giữa hai hàng lông mày. ‘Dĩ nhiên là vậy, Paul ạ.’
“ ‘Tôi đọc trong sách hướng dẫn thì Istanbul cũng có những phế tích ngầm như La Mã - đại loại như các hầm mộ, bể chứa… Chúng ta còn ít nhất là một ngày trước khi rời khỏi nơi đây - có lẽ chúng ta nên nói với Turgut điều này.’
“ ‘Đó không phải là một ý kiến tồi,’ Helen ôn tồn tiếp lời. ‘Cung điện của các hoàng đế thuộc đế quốc Byzantine hẳn phải có những khu vực ngầm.’ Cô cơ hồ mỉm cười, nhưng lại đưa tay lên sờ vào chiếc khăn quàng cổ, tựa như ở đó có gì đó làm cô cảm thấy khó chịu. ‘Trong bất kỳ trường hợp nào, những gì còn lại của các cung điện đó chắc hẳn đầy những linh hồn tội lỗi - các hoàng đế từng chọc mù mắt thân thích của họ, đại loại như thế. Đúng là đám tay sai tuyệt hảo cho Dracula.’
“Bởi vì cả cha và cô, người này có thể đọc rõ ràng các suy nghĩ qua nét mặt người kia, đang cùng nhau tập trung suy ngẫm về cuộc săn lùng kỳ lạ và vĩ đại mà những suy nghĩ ấy có thể dẫn đắt đến, nên thoạt tiên cha không để ý thấy có người đang chăm chú theo dõi cha. Hơn nữa, hắn không phải là bóng ma cao lớn, đầy đe dọa, mà chỉ là một gã khá nhỏ con, gầy ốm, bình thường giữa chốn đông người qua lại, lảng vảng cách bức tường thánh đường chưa đến chục mét.
“Sau đó, trong cơn choáng váng ập đến ngay tức khắc, cha nhận ra đó là vị học giả nhỏ bé với bộ râu xám bờm xờm, mũ lưỡi trai trắng, quần áo một màu nâu buồn tẻ - người đã vào trung tâm lưu trữ tư liệu sáng hôm đó. Vào giây kế tiếp, cha còn thấy choáng váng hơn. Gã đó đã phạm sai lầm khi nhìn cha chằm chằm một cách lộ liễu, đến độ cha bất chợt nhận ra và trông thấy gã lủi vào đám đông. Sau đó gã biến mất, tan biến như một bóng ma giữa đám du khách ồn ào vui vẻ. Cha lao đến, gần như suýt va vào Helen, nhưng chỉ hoài công vô ích. Gã đàn ông đã bốc hơi; hắn biết đã bị cha phát hiện. Gương mặt hắn, giữa hàm râu quái đản và chiếc mũ lưỡi trai mới, rõ ràng không thể chối cãi là một khuôn mặt cha đã từng gặp tại trường đại học ở quê nhà. Lần sau cùng cha nhìn thấy gương mặt đó là ngay trước khi nó được phủ lại bởi một tấm vải trắng. Đó là gương mặt của gã thủ thư đã chết.”
Chú thích:
1. Nguyên văn tiếng Pháp: “Vâng, có.”