Truy Tìm Dracula

Chương 35 :

Ngày đăng: 13:57 19/04/20


“Sau này, khi đã biết Helen trong nhiều tình huống hơn, kể cả những tình huống chúng ta quen gọi là đời thường, cô vẫn không ngừng khiến cha phải ngạc nhiên. Cha thường kinh ngạc trước khả năng liên kết nhanh các sự kiện trong đầu óc cô, những liên kết thường dẫn đến sự thấu hiểu bản chất sự việc mà phải mất khá lâu bản thân cha mới đạt đến được. Cô còn làm cha phải sững sờ với kiến thức uyên bác tuyệt vời của mình. Helen có đầy những chuyện bất ngờ như vậy, và cha dần dần xem chúng như cái giá mình phải trả hằng ngày, một sự nghiện ngập đối với khả năng luôn khiến cha bất ngờ ở cô. Nhưng chưa bao giờ cô làm cha hoảng hốt như khoảnh khắc ở Istanbul, lúc cô bất ngờ nổ súng vào tay thủ thư kia.



“Tuy nhiên, cha không có thời gian để ngạc nhiên, vì hắn chỉ trượt ngã sang một bên và ném một cuốn sách sượt qua đầu cha, sách trúng một cái bàn đâu đó bên trái cha, rồi rơi xuống sàn. Helen lại bấm cò, vừa tiến lên phía trước vừa nhắm bắn với vẻ bình tĩnh khiến cha nghẹt thở. Rồi phản ứng kỳ quái của tên tay sai khiến cha phải kinh ngạc. Từ trước đến nay, cha chưa bao giờ thấy ai bị bắn, ngoại trừ trong phim ảnh, nhưng trong phim, than ôi, kể từ hồi mười một tuổi cha đã xem bộ phim trong đó cả ngàn người da đỏ chết trước mũi súng, sau này còn thấy đủ mọi hình tượng tội phạm, cướp ngân hàng, đám lưu manh côn đồ, cả bọn lính Đức Quốc xã, được Hollywood thời chiến hăng hái tạo ra để bắn giết. Điều kỳ lạ của vụ nổ súng này, một vụ nổ súng thực sự, là dù có một vết đen do trúng đạn hiện trên áo, tại một chỗ dưới vùng xương ức, nhưng hắn không hề tỏ vẻ đau đớn, đưa tay chộp ngay vào chỗ đó. Viên đạn thứ hai sượt qua vai; gã bỏ chạy, lủi vào kho sách ở cuối sảnh.



“ ‘Cánh cửa!’ Turgut la lên phía sau cha. ‘Có một cánh cửa ở đó!’ Bọn chúng ta chạy đuổi theo hắn, va vấp lung tung vào bàn ghế. Selim Aksoy mảnh khảnh và nhanh như một chú linh dương, vọt đến chỗ các kho sách trước tiên và biến mất vào trong đó. Bọn ta nghe thấy âm thanh một cuộc ẩu đả, cùng với một tiếng rầm, đúng hơn là tiếng cửa sập, và nhận ra Aksoy đang nằm sóng soài, thân hình bị đè dưới một đống bản thảo viết tay từ thời Ottoman, một cục u bầm tím hiện rõ trên một bên má anh ta. Turgut chạy về phía cánh cửa, cha cũng chạy theo, nhưng cánh cửa đã đóng chặt. Khi mở được nó ra, chúng ta chỉ thấy một con hẻm nhỏ vắng tanh, không có gì ngoài một chồng hộp gỗ. Turgut và cha sóng đôi sục sạo cả khu vực rối rắm như một mê cung đó, nhưng không thấy dấu vết nào của tên tay sai kia, chắc hẳn hắn đã bay mất rồi. Turgut chặn một vài khách bộ hành lại để hỏi nhưng không ai trông thấy nhân vật của chúng ta.



“Một cách miễn cưỡng, hai chúng ta quay trở về trung tâm lưu trữ, Helen đang cầm khăn tay lau má cho Aksoy. Không thấy cây súng ở đâu nữa, các tập bản thảo cũng đã xếp lại ngay ngắn trên những giá sách. Cô ngước nhìn lên khi bọn ta bước vào. ‘Anh ta đã ngất đi khoảng một phút,’ Helen lên tiếng, giọng bình tĩnh, ‘nhưng bây giờ thì ổn rồi.’



“Turgut quỳ xuống bên cạnh bạn mình. ‘Selim, đầu anh u to quá.’



Selim Aksoy nở một nụ cười thiểu não. ‘Tôi được chăm sóc tốt rồi mà,’ anh ta trả lời.



“ ‘Chuyện đó thì tôi thấy rồi,’ Turgut đồng tình. ‘Helen này, tôi thành thực khen ngợi nỗ lực của cô. Nhưng cố giết một kẻ đã chết là một việc vô ích.’



“ ‘Làm sao ông biết?’ cha hỏi, há hốc vì kinh ngạc.



“ ‘Ồ, tôi biết chứ,’ ông trả lời, giọng dứt khoát. ‘Tôi biết cái vẻ mặt đó. Đó là nét mặt của quỷ nhập tràng. Chẳng có khuôn mặt nào khác giống như vậy cả. Tôi đã từng nhìn thấy vẻ mặt đó.’



“ ‘Dĩ nhiên, đó là một viên đạn bạc.’ Helen miết chiếc khăn tay mạnh hơn lên má Aksoy, để đầu anh ta tựa hờ lên vai. ‘Nhưng, như các anh đã thấy, hắn di chuyển nên tôi đã không bắn trúng tim. Tôi biết mình đã liều lĩnh - cô nhìn cha một lúc lâu, nhưng cha không thể đoán cô đang nghĩ gì - nhưng chính bản thân ông cũng thấy là tôi đã ngắm khá chuẩn. Một người bình thường hẳn đã bị thương nặng vì những phát đạn như vậy.’ Cô thở dài, chỉnh lại chiếc khăn tay.


“ ‘Ông ta cũng bắt hơn năm mươi ngàn người trong số cư dân đó làm nô lệ,’ Helen lạnh lùng chêm vào. ‘Xin đừng quên sự thật đó.’



“Turgut dành tặng cô một nụ cười thán phục. ‘Cô quả là một đối thủ quá sức tôi. Nhưng tôi chỉ muốn chứng minh rằng các vị Quốc vương của chúng tôi không phải là những con quái vật. Vào thời đó, họ thường tỏ ra khá khoan dung sau khi đã chinh phục được một vùng nào đó. Chỉ có bản thân quá trình chinh phục là không mấy vui vẻ thôi.’ Ông ta trỏ bức tường ở đầu kia của trung tâm lưu trữ. ‘Chân dung của vị Quốc vương Mehmed vĩ đại ở kia, nếu các bạn muốn chiêm ngưỡng ông ấy.’ Cha đi đến đó xem, dù Helen vẫn bướng bỉnh đứng yên tại chỗ. Bức tranh được đóng khung - có vẻ như là một bức tranh màu nước rẻ tiền - vẽ một người đàn ông rắn chắc, ngồi trên ghế, đầu đội khăn xếp hai màu trắng đỏ. Da trắng, bộ râu tỉa tót công phu, đôi hàng lông mày như nét chữ bay bướm và đôi mắt màu hổ phách. Trong tay là một bông hồng độc nhất, áp sát vào chiếc mũi khoằm lớn, ngửi hương hoa và nhìn xa xăm. Cha thấy ông ta có vẻ là một đạo sĩ phái Hồi giáo Sufi thần bí hơn là một kẻ xâm lăng ác độc.



“ ‘Đúng là một bức tranh làm người ta khá ngạc nhiên,’ cha nhận xét.



“ ‘Vâng, ông ta còn là người bảo trợ nhiệt tình cho ngành kiến trúc và các loại hình nghệ thuật, và đã xây dựng cho thành phố này nhiều dinh thự xinh đẹp.’ Turgut gõ gõ ngón tay to bè vào cằm. ‘À, các bạn nghĩ gì về bản tường thuật anh Selim phát hiện?’



“ ‘Thú vị,’ cha đáp lời theo kiểu xã giao, ‘nhưng tôi không rõ nó có ích gì trong việc giúp chúng ta tìm ra ngôi mộ.’



“ ‘Tôi cũng vậy,’ Turgut nói tiếp. ‘Tuy nhiên, ở đây tôi ghi nhận có một sự tương đồng nào đó giữa đoạn tường thuật này với mẩu thư tôi đọc cho anh nghe sáng nay. Những chuyện náo động trong khu hầm mộ ở Snagov, dù là gì chăng nữa, cũng xảy ra cùng năm 1477 đó. Chúng ta đã biết đó là năm ngay sau năm Vlad Dracula chết, và có một nhóm tu sĩ rất quan tâm đến gì đó ở Snagov. Liệu các tu sĩ này có cùng là một nhóm với họ không, hay là một nhóm nào đó liên quan tới Snagov?’



“ ‘Có thể,’ cha thừa nhận, ‘nhưng đó chỉ là phỏng đoán. Bản tường thuật này chỉ nói là các tu sĩ từ vùng Carpates đến. Trong thời kỳ đó, vùng Carpates hẳn phải đầy rẫy tu viện. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn là họ đến từ một tu viện ở Snagov? Helen, cô có ý kiến gì không?’



“Chắc hẳn cha đã làm cô bất ngờ, bởi cô nhìn thẳng vào cha với vẻ mặt đượm buồn mà từ trước đến nay cha chưa bao giờ nhìn thấy. Tuy nhiên, ấn tượng đó tan biến ngay, và cha lại nghĩ có thể mình đã tưởng tượng ra điều đó, hoặc có lẽ cô đang nhớ đến người mẹ và chuyến đi Hungary sắp tới của hai chúng ta. Dù đầu óc có đang mơ màng ở đâu đâu, cô vẫn trấn tĩnh lại ngay. ‘Vâng, có rất nhiều tu viện trong vùng Carpates. Anh Paul nói đúng - chúng ta không thể đánh đồng hai nhóm tu sĩ đó nếu không có thêm thông tin nào khác.’



“Cha nghĩ giáo sư Turgut có vẻ thất vọng, ông ta mở miệng định nói điều gì đó, nhưng ngay lúc ấy chúng ta bị cắt ngang bởi tiếng thở hổn hển, khò khè. ‘Ông ấy ngất rồi!’ Turgut thét lên. ‘Còn chúng ta thì cứ mãi ba hoa như một đám lắm điều…’ Ông ta lại đưa củ tỏi lên mũi người bạn, và viên thủ thư lại nói lắp bắp và hơi hồi tỉnh. ‘Nhanh lên, chúng ta phải đưa ông ta về nhà. Giáo sư, và cô nữa, xin giúp tôi một tay. Tôi sẽ gọi taxi đưa ông ấy về nhà tôi. Ở đó, tôi và vợ tôi có thể chăm sóc ông ấy. Selim sẽ ở lại lo cho trung tâm lưu trữ - hẳn sắp tới giờ mở cửa rồi.’ Ông giáo sư liến thoắng bằng tiếng Thổ với Aksoy thêm vài yêu cầu gì đó nữa.



“Sau đó, Turgut và cha nâng người thủ thư ốm yếu xanh xao kia lên, dìu ông ta ra ngoài, cẩn thận đi qua lối cửa sau. Helen cầm áo khoác của Turgut theo sau, chúng ta đi hết con hẻm, và một lát sau đã đứng giữa ánh nắng ban mai. Khi ánh nắng chiếu vào mặt, ông Erozan rúm người lại, rúc vào vai cha, đưa một bàn tay lên che mắt lại, tựa như đang né tránh một cú đánh vào người.”