Truy Tìm Dracula

Chương 4 :

Ngày đăng: 13:57 19/04/20


Như cha đã nói với con, cha bắt đầu kể, hắng giọng một hai lần, giáo sư Rossi là một học giả xuất sắc và là một người bạn chân tình. Cha không muốn con nghĩ bất kỳ điều gì khác về ông ấy. Cha biết mình đã sai lầm, có lẽ vậy, vì trước đây đã kể và làm cho con nghĩ ông ấy có vẻ như… mất trí. Chắc con vẫn nhớ là ông ấy đã thuật lại với cha một điều khủng khiếp, khó mà tin nổi. Và cha đã bị sốc nặng, lòng đầy nghi hoặc, dù đã nhìn thấy sự thành thực và vẻ cam chịu trên khuôn mặt ông. Khi đã kể xong, ông liếc nhìn cha bằng ánh mắt sắc lạnh.



“Thực sự thầy muốn ám chỉ điều gì?” Hẳn là khi ấy cha phải lắp bắp lắm.



“Tôi nhắc lại,” thầy Rossi gằn giọng, “Ở Istanbul, tôi đã phát hiện là hiện nay Dracula vẫn còn sống giữa chúng ta. Hoặc ít nhất, còn sống vào lúc đó.”



Cha nhìn ông chằm chằm.



“Tôi biết hẳn anh cho là tôi điên,” ông nói, giọng rõ ràng đã bớt gay gắt. “Và tôi cũng đồng ý với anh rằng bất kỳ ai miệt mài tập trung quá lâu vào lịch sử đều có thể trở nên điên khùng nặng.” Ông thở dài. “Ở Istanbul có một trung tâm lưu trữ các tư liệu ít người biết, do Quốc vương Mehmed II, người đã chiếm thành phố này từ tay đế quốc Byzantine vào năm 1453, xây dựng. Sau đó trung tâm lưu trữ này chỉ chứa những thứ đầu thừa đuôi thẹo được người Thổ thu thập sau này, khi họ dần dần bị đánh lui và vùng biên cương đế quốc Ottoman thu hẹp lại. Ngoài ra, nó còn chứa đựng những tài liệu từ cuối thế kỷ mười lăm, và tôi đã tìm thấy trong đó vài tấm bản đồ chỉ phương hướng tìm đến Hầm mộ Tội Lỗi của Kẻ Tiêu Diệt người Thổ, tôi nghĩ kẻ đó có thể chính là Vlad Dracula. Thực ra, có ba tấm bản đồ vẽ theo tỷ lệ xích khác nhau nhằm thể hiện cùng một khu vực với mức độ chi tiết tăng dần. Tôi không nhận ra và cũng không thể liên kết bất cứ điều gì trên các tấm bản đồ này với bất kỳ khu vực nào mà mình biết. Chúng được ghi chú chủ yếu bằng chữ Ả-rập, và có niên đại từ cuối thế kỷ mười lăm, theo lời của những người thủ thư trung tâm lưu trữ.” Ông khẽ nhịp tay lên cuốn sách nhỏ kỳ lạ, mà cha đã kể với con là rất giống cuốn sách của cha. “Thông tin ghi ở giữa tấm bản đồ thứ ba được ghi bằng một thứ phương ngữ Xlavơ cổ. Chỉ các học giả uyên bác, thông thạo nhiều ngôn ngữ mới có thể giải mã được toàn bộ nội dung của các tấm bản đồ này. Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng cũng không mấy tự tin.”



Đến đây, thầy Rossi lắc đầu, tựa như vẫn còn hối tiếc về những mặt hạn chế của mình. “Nỗ lực đổ vào cuộc tìm hiểu này đã kéo tôi ra xa đến vô lý công việc nghiên cứu chính thức trong mùa hè về chủ đề giao thương thời cổ đại ở đảo Crete. Nhưng tôi đã quá say mê nó, tôi nghĩ vậy, khi ngồi trong cái thư viện nóng nực và nhớp nháp ở Istanbul. Tôi nhớ mình vẫn có thể nhìn thấy những ngọn tháp của thánh đường Hagia Sophia qua những cửa sổ bụi bặm. Tôi đã làm việc ở đó, với những manh mối về quan điểm của người Thổ đối với vương quốc của Vlad nằm trên bàn phía trước mặt, cặm cụi gò lưng trên những cuốn tự điển, ghi ghi chép chép cơ man các dữ liệu, và chép lại bằng tay các tấm bản đồ kia.



“Để tóm gọn câu chuyện nghiên cứu dài hơi này lại, một buổi chiều nọ tôi chợt thấy mình chú tâm đến một vị trí được đánh dấu cẩn thận là Hầm mộ Tội Lỗi trên tấm bản đồ thứ ba và cũng là tấm bản đồ rắc rối nhất. Anh hãy nhớ Vlad Ţepeş được cho là đã được chôn cất tại một tu viện trên một hòn đảo trong hồ Snagov, ở Rumani. Bản đồ này, cũng như hai cái kia, không cho thấy một cái hồ nào có một hòn đảo cả - mặc dù nó cũng cho thấy có một dòng sông phình rộng ra ở giữa và chảy qua suốt khu vực. Tôi đã dịch tất cả mọi từ viết chung quanh viền khung bản đồ, với sự trợ giúp của một giáo sư đại học Istanbul chuyên về tiếng Ả-rập và Thổ Nhĩ Kỳ - những châm ngôn khó hiểu về bản chất của cái ác, nhiều câu trong số đó xuất phát từ Kinh Koran. Đây đó trên tấm bản đồ, ẩn mình giữa những ngọn núi được phác thảo thô là vài chữ viết, thoạt nhìn có vẻ như là những địa danh viết bằng một thứ phương ngữ Xlavơ nhưng dịch ra thì lại giống như những câu đố khó hiểu, có thể là mật mã chỉ những địa điểm có thực nào đó như: Thung lũng Tám Cây Sồi, Làng Trộm Heo, vân vân - những cái tên quê mùa kỳ lạ chẳng có nghĩa gì đối với tôi.



“À, ở ngay chính giữa tấm bản đồ, phía trên vị trí Hầm mộ Tội Lỗi, hoặc bất kỳ nơi đâu được cho là địa điểm hầm mộ này là hình phác thảo một con rồng, mang trên đầu một lâu đài như một thứ vương miện. Con rồng trông chẳng có gì giống với con trong cuốn sách cổ của tôi, à không, của chúng ta, nhưng tôi phỏng đoán nó đã lưu truyền đến người Thổ cùng với huyền thoại về Dracula. Phía dưới con rồng, có ai đó đã viết bằng mực những chữ rất nhỏ, thoạt tiên tôi cứ nghĩ là chữ Ả-rập, giống như các câu châm ngôn ở đường viền tấm bản đồ. Nhìn chúng qua một kính lúp, tôi chợt nhận ra những chữ này thực ra là chữ Hy Lạp, tôi liền dịch và đọc to chúng lên trước khi kịp nghĩ đến vấn đề xã giao tế nhị - dù lúc đó, dĩ nhiên là thư viện vắng tanh, chỉ có mỗi mình tôi và một người thủ thư mặt mày ủ rũ thỉnh thoảng đi vào đi ra, dường như để đảm bảo là tôi không lấy cắp bất kỳ thứ gì. Vào lúc đó, tôi hoàn toàn chỉ có một mình. Những con chữ nhỏ xíu kia như nhảy múa dưới mắt tôi khi tôi đọc chúng lên: ‘Ở địa điểm này, hắn bị giam giữ trong cái ác. Người đọc, hãy khai quật hắn lên bằng chỉ một lời.’



“Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng sầm cửa ở phòng nghỉ dưới lầu. Những bước chân nặng nề bước lên cầu thang. Tuy nhiên, tôi vẫn bận rộn với một ý nghĩ chợt lóe lên: chiếc kính lúp vừa thổ lộ cho tôi biết rằng tấm bản đồ này, không giống như hai bản đồ đầu tiên chung chung hơn kia, được ghi chú bởi ba người khác nhau, bằng ba ngôn ngữ khác nhau. Chữ viết tay và ngôn ngữ cũng không giống nhau. Màu mực, những loại mực cổ, cũng vậy. Rồi tôi đột ngột hiểu ra - anh biết đấy, một nhà nghiên cứu có thể hoàn toàn tin tưởng vào trực giác khi đằng sau nó là hàng tuần miệt mài làm việc.



“Đối với tôi, có vẻ như, thoạt tiên tấm bản đồ chỉ bao gồm bức tranh phác thảo ở chính giữa, những ngọn núi bao bọc xung quanh và cái mệnh lệnh bằng tiếng Hy Lạp ấy. Có lẽ sau này nó mới được ghi chú thêm bằng thứ phương ngữ Xlavơ để xác định những địa điểm đã được đề cập - dưới dạng mật mã, ít ra là như vậy. Rồi sau đó, vì một lý do nào đó, nó đã rơi vào tay những người Ottoman và bị bao bọc trong những câu chữ xuất phát từ Kinh Koran, những thứ có vẻ như để chứa đựng hoặc giam giữ cái thông điệp báo điềm gở ở chính giữa kia, hoặc để phong tỏa nó bằng những bùa chú chống lại bóng tối. Nếu điều này là có thực, thì ai, ai biết tiếng Hy Lạp, đã ghi chú tấm bản đồ trước tiên, hoặc có lẽ thậm chí đã vẽ ra nó? Tôi được biết vào thời Dracula, tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ được các học giả Byzantine sử dụng, chứ không phải đa số các học giả trong Đế quốc Ottoman.



“Trước khi tôi có thể viết ra, dù chỉ một ghi chú về giả thuyết này, giả thuyết có thể liên quan đến những thử nghiệm vượt quá quyền hạn của mình, cánh cửa ở phía bên kia kho sách bỗng bật mở, và một gã cao to lực lưỡng bước vào, hung tợn lao nhanh qua đống sách vở một cách thô bạo rồi đứng lại ở bên kia bàn, nơi tôi đang làm việc. Gã có dáng vẻ của một kẻ cố tình đột nhập, tôi cảm thấy chắc chắn gã không phải là một trong những người thủ thư. Tôi cũng cảm thấy vì lý do nào đó mình nên đứng dậy, nhưng sự tự cao đã không cho tôi nhấc người lên; hành động như thế có thể chứng tỏ tôi đã quá khúm núm sợ sệt, nhất là trước sự can thiệp đột ngột và khá thô bạo của gã đàn ông kia.



“Chúng tôi nhìn thẳng vào mặt nhau, tôi chưa bao giờ cảm thấy hoang mang như vậy. Gã đàn ông rõ ràng không hợp với bối cảnh ở đây, đẹp trai và ăn mặc chải chuốt theo phong cách thiên về màu sậm của người Thổ hoặc người miền Nam Xlavơ, râu mép rậm, bộ y phục sẫm màu được cắt may cẩn thận như một doanh nhân phương Tây. Ánh mắt gã đụng ánh mắt tôi nảy lửa, và đôi hàng lông mi dài có vẻ gì đó rất đáng ghét trên khuôn mặt lạnh lùng kia. Nước da gã vàng bủng nhưng đẹp đẽ, không có một tì vết, còn cái lưỡi thì rất đỏ. ‘Thưa ông,’ gã nói nhỏ, giọng thù địch, gần như là làu bàu một thứ tiếng Anh giọng Thổ. ‘Tôi không cho rằng ông được phép làm việc này.’



“ ‘Làm việc gì?’ Tôi lập tức sửng cồ lại.



“ ‘Việc nghiên cứu này. Ông đang tiếp cận những tài liệu mà chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ xem như tư liệu lịch sử riêng của quốc gia. Tôi có thể xem giấy tờ của ông được chứ?’



“ ‘Anh là ai?’ Tôi đáp lại cũng lạnh lùng không kém. ‘Tôi có thể xem giấy tờ của anh chứ?’



“Gã rút từ túi trong áo khoác một cái ví, mở ví ra và đập nó xuống mặt bàn trước mặt tôi, rồi chộp lên và đóng ập ví lại. Tôi chỉ kịp nhìn thấy một cái thẻ màu ngà cùng với một mớ bòng bong những tiêu đề chữ Thổ trên đó. Bàn tay gã nhợt nhạt như sáp trông rất khó chịu, móng tay để dài cùng với một vạt lông đen trên mu bàn tay. ‘Bộ Tài nguyên Văn hóa,’ gã nói, giọng lạnh tanh. ‘Tôi hiểu rằng ông thực sự không có sự thu xếp trao đổi với chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ để nghiên cứu những tài liệu này. Đúng vậy chứ?’



“ ‘Chắc chắn không phải vậy.’ Tôi trình ra cho gã một lá thư của Thư viện Quốc gia, nêu rõ là tôi được quyền nghiên cứu ở bất kỳ đơn vị bộ phận nào của Thư viện ở Istanbul.




“Tôi chắc rằng anh đã mang theo mình lòng tốt, ý thức luân lý, anh muốn gọi là gì cũng được, tốt thôi - mà tôi cũng thích nghĩ rằng hầu hết mọi người chúng ta đều có thể mang theo những thứ như vậy. Tôi sẽ không đi loanh quanh với mấy củ tỏi trong túi, không đâu.”



“Mà với liều thuốc trừ tà tinh thần mạnh.”



“Phải, tôi đã cố làm vậy.” Mặt ông đượm nét buồn cùng cực, gần như khắc khổ. “Có thể tôi đã sai lầm khi không áp dụng những mê tín dị đoan xưa cũ kia, nhưng tôi là một người duy lý chủ nghĩa, tôi cho là thế, và tôi sẽ vẫn như vậy.”



Cha bấu chặt các ngón tay trên cái gói.



“Đây là cuốn sách của anh. Đó là một cuốn sách thú vị và tôi mong anh may mắn trong việc xác định nguồn gốc của nó.” Ông trao lại cho cha cuốn sách bìa bọc giấy da của cha, và cha nghĩ vẻ u sầu trên gương mặt ông tương phản hẳn với nét nhiệt tâm trong những lời ông nói. “Hai tuần nữa anh hẵng quay lại và chúng ta sẽ trở lại với nền giao thương của Utrecht.”



Chắc hẳn cha đã phải chớp mắt; thậm chí cả cái luận văn tiến sĩ cũng có vẻ như không có thực đối với cha. “Vâng, tốt thôi.”



Rossi uống cạn cốc cà phê, cha lóng ngóng thu xếp lại cặp giấy tờ.



“Một điều cuối,” ông trở giọng nghiêm trọng, khi cha quay lưng về phía ông.



“Vâng?”



“Chúng ta sẽ không đề cập đến chuyện này nữa.”



“Thầy không muốn biết tôi sẽ tiến hành nghiên cứu việc này như thế nào sao?” Cha cảm thấy kinh ngạc và thoáng chút cô đơn.



“Anh có thể nói như thế. Tôi không muốn biết. Dĩ nhiên, trừ phi anh gặp rắc rối.” Ông thân mật siết tay giã từ cha như thường lệ. Vẻ đau buồn thực sự, một vẻ cha chưa thấy bao giờ, bao trùm khuôn mặt ông, rồi có vẻ như ông cố nở một nụ cười.



“Thôi được,” cha đáp lại.



“Hai tuần nữa nhé,” ông gọi với theo, ông hầu như đã vui vẻ lúc cha bước ra. “Hãy mang đến cho tôi một chương hoàn chỉnh, hoặc cái gì đó.”



Cha ngừng lại. Tôi bối rối và ngạc nhiên khi thấy nước mắt lấp lánh trong mắt cha. Nét cảm xúc đó ngăn không cho tôi hỏi thêm dù cha chẳng lên tiếng yêu cầu. “Con thấy đấy, viết một luận văn đúng là kinh khủng,” cha nói tiếp, giọng nhẹ nhàng. “Dù sao, có lẽ chúng ta không nên dính vào chuyện này nữa. Một câu chuyện xa xưa rối rắm như vậy, và rõ ràng mọi thứ hóa ra đều ổn, nên giờ cha mới đang ở đây, thậm chí không còn là một giáo sư bị ám ảnh chuyện quỷ ma nữa, và con cũng đang ở đây.” Cha chớp mắt, như đang dần tỉnh lại. “Đó là một kết cuộc có hậu, như mọi kết cuộc khác.”



“Nhưng có lẽ còn nhiều vấn đề ở đoạn giữa,” tôi khó nhọc nói. Ánh nắng chiều yếu ớt chiếu trên da thịt, không đủ sức rọi đến tận cốt xương tôi, nơi đã ngấm chút hơi lạnh thoát lên từ biển. Chúng tôi vươn vai rồi quay bên này bên kia để nhìn thành phố bên dưới. Nhóm du khách cuối cùng lang thang ngang qua chúng tôi, dọc theo tường bao bờ biển đến đứng trong một góc xa xa, chỉ trỏ ra những hòn đảo hoặc chụp ảnh cho nhau. Tôi liếc nhìn cha, nhưng cha đang nhìn đăm đăm ra biển. Ở sau những du khách khác, nhưng cũng đã cách chúng tôi khá xa về phía trước, là một người đàn ông mà trước đó tôi không để ý thấy, đang bước chậm rãi nhưng rõ ràng là không đuổi theo được nữa, cao lớn, vai rộng, mặc một bộ com lê len đen. Tôi đã nhìn thấy những người đàn ông cao lớn mặc đồ đen khác trong thành phố ấy, nhưng không hiểu sao tôi không thể không nhìn theo người đàn ông kia.