Truy Tìm Dracula
Chương 40 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
“Sáng hôm sau, khi thức dậy, cha thấy mình đang nằm ngửa trên chiếc giường nhỏ cứng ngắc, mắt trừng trừng nhìn những bức tượng tiểu thiên sứ mạ vàng, một lúc lâu vẫn không thể nhớ ra mình đang ở đâu. Đó là một cảm giác khó chịu; cha thấy mình như đang trôi bồng bềnh, xa cách với quê nhà nhiều hơn mình tưởng, không thể nhớ ra nơi đây là New York, Istanbul, Budapest, hay một thành phố nào khác. Cha có cảm giác vừa trải qua một cơn ác mộng ngay trước lúc thức giấc. Một cơn nhói đau trong lòng làm cha nhớ đến sự vắng mặt của thầy Rossi, cảm giác thường đến với cha trước tiên hàng sáng, rồi cha băn khoăn tự hỏi liệu có phải giấc mơ vừa xong đã đưa cha đến một nơi chốn khắc nghiệt nào đó, nơi nếu cha ở lại lâu hơn thì có thể cha đã tìm được thầy?
“Cha thấy Helen đang ngồi ăn điểm tâm trong phòng ăn của khách sạn với một tờ nhật báo Hungary mở rộng trước mặt - những dòng chữ in tiếng Hung ngay lập Hức khiến cha thấy tuyệt vọng vì không thể hiểu dù chỉ một từ tiêu đề. Cô chào cha bằng một cái vẫy tay vui vẻ. Cảm giác kết hợp mang lại từ giấc mơ mụ mị kia, những dòng tiêu đề này và bài thuyết trình sắp tới hẳn đang lộ ra trên mặt cha, bởi cô nhìn cha với ánh mắt giễu cợt khi cha đến gần. ‘Sao mặt anh bí xị quá vậy? Chắc lại đang nghĩ đến những trò tàn bạo của người Ottoman chứ gì?’
“ ‘Ồ, không. Tôi chỉ đang nghĩ đến các cuộc hội nghị quốc tế thôi.’ Cha ngồi xuống và tự với tay lấy một chiếc khăn ăn trắng và giỏ bánh mì của cô. Có vẻ như khách sạn này, bất chấp toàn bộ vẻ tồi tàn của nó, vẫn có những chiếc khăn trải bàn và khăn ăn đặc biệt trắng không tì vết. Món bánh mì bơ và mứt dâu rất tuyệt, cà phê được mang ra vài phút sau đó cũng vậy. Chẳng có gì cay đắng ở đây.
“ ‘Đừng lo,’ Helen nói, giọng vỗ về. ‘Anh sắp sửa…’
“ ‘Làm cho người ta khoái chí tử chứ gì?’ cha ngắt lời cô.
“Cô bật cười, nói, ‘Anh đang giúp tôi trau dồi vốn tiếng Anh, hoặc đang phá hoại nó đấy.’
“ ‘Tối hôm qua tôi rất ấn tượng về bà bác cô.’ Cha phết bơ vào một ổ bánh mì khác.
“ ‘Tôi có thể nhận thấy điều đó.’
“ ‘Nếu không phiền, xin cô cho tôi biết chính xác, làm thế nào mà từ Rumani bà ấy đến được đây, và còn đạt đến một địa vị cao như vậy?’
“Helen nhấp một ngụm cà phê. ‘Đó là một sự tình cờ của số phận, tôi nghĩ vậy. Gia đình bác rất nghèo khổ - họ là những người vùng Transylvania, sống nhờ vào một mảnh đất nhỏ trong ngôi làng mà nghe nói nay cũng không còn nữa. Ông bà ngoại tôi có chín người con, bác Éva là con thứ ba. Ông bà ngoại tôi đã cho bác đi làm lúc mới lên sáu vì cần tiền và không thể nuôi nổi bác. Bác làm việc trong biệt thự của một gia đình người Hungary giàu có, chủ của tất cả đất đai bên ngoài làng. Giữa hai cuộc thế chiến, có nhiều địa chủ người Hungary còn ở lại khu vực đó - họ bị kẹt lại ở đó do sự thay đổi các đường biên giới sau Hiệp ước Trianon.’
“Cha gật đầu. ‘Đó là hiệp ước tái sắp xếp các đường biên giới sau Thế chiến I phải không nhỉ?’
“ ‘Chính xác. Vậy là bác Éva đã làm việc cho gia đình kia từ lúc còn rất bé. Bác kể với tôi là họ rất tử tế. Thỉnh thoảng, họ cho phép bác về nhà vào các ngày Chủ nhật nên bác vẫn khá thân thiết với gia đình. Lúc bác được mười bảy tuổi, gia đình mà bác giúp việc quyết định trở về Budapest, họ quyết định mang bác theo. Tại đây, bác gặp một người đàn ông trẻ tuổi, một nhà báo đồng thời là người hoạt động cách mạng tên là János Orbán. Họ yêu nhau, cưới nhau, và bác Orbán đã sống sót sau thời gian phục vụ quân đội trong cuộc chiến.’ Helen thở dài. ‘Anh biết đấy, rất nhiều chàng Hrai Hungary đã chiến đấu khắp châu Âu và rồi bị chôn vùi trong những nấm mồ tập thể ở Ba Lan, Nga… Dù sao chăng nữa, sau chiến tranh bác Orbán đã nhanh chóng thăng tiến trong chính phủ liên minh, và đến sau cuộc cách mạng vinh quang của chúng tôi thì ông được tưởng thưởng bằng một vị trí trong nội các. Nhưng sau đó ông qua đời vì một tai nạn xe hơi, bác Éva vừa một mình nuôi dạy hai con trai vừa tiếp tục sự nghiệp chính trị của chồng. Bác là một phụ nữ tuyệt vời. Tôi chưa bao giờ biết chính xác đức tin của cá nhân bác ấy là gì - đôi khi tôi có cảm giác bác luôn tránh bộc lộ cảm xúc với mọi vấn đề chính trị, tựa như chính trị chỉ đơn giản là nghề của bác mà thôi. Còn bác Orbán là mộH người đầy nhiệt huyết, một người tuyệt đối tin theo học thuyết của Lênin và ngưỡng mộ Stalin. Tôi không thể nói liệu bác gái của tôi có giống như vậy hay không, nhưng bà ấy đã tự tay xây dựng cho mình một sự nghiệp đáng nể. Kết quả là các con của bác được hưởng mọi đặc quyền có thể có, và bác cũng sử dụng quyền lực của mình để giúp tôi, như tôi đã kể với anh.’
“Cha chăm chú lắng nghe. ‘Thế cô và mẹ cô thì đã đến đây như thế nào?’
“Helen lại thở dài. ‘Mẹ tôi nhỏ hơn bác Éva mười hai tuổi,’ cô Hiếp tục. ‘Bao giờ bà cũng là đứa em bác Éva cưng nhất nhà. Khi bác Éva được đưa sang Budapest, mẹ tôi mới được năm tuổi. Mười chín tuổi, mẹ tôi mang bầu khi vẫn chưa chồng. Bà sợ ông bà ngoại và mọi người trong làng biết được - anh biết đấy, trong một nền văn hóa trọng truyền thống như vậy, mẹ tôi có nguy cơ bị tống cổ ra khỏi nhà và có thể bị chết đói. Bà đã viết thư cầu cứu bác Éva, hai vợ chồng bác đã thu xếp cho mẹ tôi đến Budapest. Bác Orbán gặp mẹ ở biên giới, vốn được canh phòng rất nghiêm ngặt, rồi mang bà về thành phố. Có lần tôi nghe bác kể lại là đã hối lộ cho đám viên chức biên phòng một số tiền khổng lồ. Ở Hungary, dân vùng Transylvania đều bị mọi người ghét bỏ, nhất là sau Hiệp ước Trianon. Mẹ tôi kể lại, bác trai đã làm cho bà hoàn toàn kính phục - không chỉ vì bác đã cứu bà thoát khỏi một tình huống khủng khiếp, mà còn vì ông chưa bao giờ để bà cảm nhận có sự phân biệt chủng tộc giữa họ. Bà vô cùng đau khổ khi ông mất. Ông là người đã cưu mang bà đến Hungary an toàn và đã cho bà một cuộc sống mới.’
“ ‘Ồ, tôi biết nghe qua thì có vẻ trẻ con - Bá tước Dracula và tất cả những chuyện đó - nhưng anh biết không, đó thực sự là một chủ đề đáng lưu ý khi anh đào sâu hơn một chút. Anh thấy đấy, Dracula là một con người có thực, vì vậy, tất nhiên không phải là một con ma cà rồng, và điều tôi quan tâm là cuộc đời hắn ta liên quan đến những truyền thuyết dân gian về ma cà rồng như thế nào. Vài năm trước đây, tôi bắt đầu tìm kiếm những văn bản tư liệu về chủ đề này, thậm chí chỉ tìm xem có văn bản hay không, vì dễ thấy là ma cà rồng chủ yếu chỉ xuất hiện trong những huyền thoại truyền miệng ở các làng quê vùng Trung và Đông Âu.’
“Anh ta ngả người ra sau, nhịp ngón tay lên cạnh bàn. ‘Mà kể cũng lạ, lúc làm việc trong thư viện đại học ở đây, tôi đã khám phá ra một tài liệu có vẻ như là do vua Corvinus ủy thác thực hiện - nhà vua muốn có người thu thập tất cả thông tin về ma cà rồng từ những thời sơ khai nhất. Dù vị học giả đảm nhận công việc này là ai, ông ta chắc chắn là một chuyên gia về cổ ngữ Hy Lạp và Latin, và thay vì rảo quanh khắp các xóm làng như bất kỳ nhà nhân học chân chính nào, ông ta bắt đầu chúi mũi vào các văn bản tiếng Hy Lạp và Latin - anh biết đấy, hẳn nhà vua Corvinus có rất nhiều thứ đó ở nơi này - để tìm những gì có liên quan đến ma cà rồng, và phát hiện một ý tưởng Hy Lạp cổ xưa mà trước khi anh đề cập tới tôi chưa từng thấy ở một nơi nào khác: hồn ma trong chiếc bình cổ. Anh biết đấy, thời Hy Lạp cổ đại cũng như trong các vở bi kịch Hy Lạp, đôi khi loại bình hai quai được dùng để chứa tro người chết, và đám dân dốt nát tin rằng chiếc bình sẽ sản sinh ra một con ma cà rồng nếu không được chôn cất đúng cách - tuy nhiên, tôi không biết chắc như thế nào là đúng cách, vẫn chưa biết. Nếu đang viết về chủ đề hồn ma trong bình cổ, có thể giáo sư Rossi biết một điều gì đó về vấn đề này. Một sự trùng hợp đáng lưu ý đấy chứ nhỉ? Thực ra, theo như những câu chuyện dân gian ở Hy Lạp hiện đại vẫn còn lũ ma cà rồng.’
“ ‘Tôi biết,’ cha nói. ‘Lũ vrykolakas.’
“Lần này thì đến lượt Hugh James nhìn cha chằm chặp. Cặp mắt lồi màu hổ phách của anh ta mở to. ‘Làm sao anh biết?’ anh thì thào. ‘Ý tôi là - xin anh thứ lỗi - tôi chỉ ngạc nhiên khi gặp một ai khác cũng…’
“ ‘Cũng quan tâm đến ma cà rồng chứ gì?’ cha tiếp lời, giọng tỉnh bơ. ‘Vâng, trước đây việc đó cũng thường làm tôi ngạc nhiên, nhưng giờ thì tôi sắp quen rồi đây. Giáo sư James, làm thế nào mà anh trở nên quan tâm đến lũ ma cà rồng đến vậy?’
“ ‘Hugh,’ anh ta ôn tồn trả lời. ‘Xin cứ gọi tôi là Hugh. Chà, tôi…’ Anh ta chăm chú nhìn cha một lát, và lần đầu tiên cha nhận ra dưới vẻ bề ngoài tươi vui và hơi vụng về đó là một xúc cảm mãnh liệt như một ngọn lửa. ‘Quả là vô cùng kỳ lạ, thường tôi không kể với ai chuyện này, nhưng…’
“Cha thực sự không chịu nổi sự trì hoãn đó. ‘Phải chăng, anh đã tình cờ tìm thấy một cuốn sách cổ có hình con rồng ở giữa?’ cha hỏi.
“Anh ta trố mắt nhìn cha, gần như sửng sốt, gương mặt hồng hào trở thành trắng bệch. ‘Vâng,’ anh ta hổn hển. ‘Tôi tìm thấy một cuốn sách.’ Đôi tay anh ta siết chặt cạnh bàn. ‘Anh là ai vậy chứ?’
“ ‘Tôi cũng tìm thấy một cuốn sách như vậy.’
“Chúng ta ngồi nhìn nhau một lúc khá lâu, cố đè nén lại những gì muốn trao đổi, và có thể sẽ lặng im lâu hơn nữa nếu không bị cắt ngang. Giọng nói của Géza József đến tai cha trước khi cha kịp nhận ra sự hiện diện của anh ta; anh ta đã đến sau lưng cha và đang cúi xuống bàn với một nụ cười vui vẻ. Helen cũng đang vội vã bước đến, gương mặt cô thực kỳ lạ - gần như dằn vặt vì cảm giác có lỗi, cha nghĩ vậy. ‘Chào các đồng chí,’ anh ta thốt lên, giọng thân tình. ‘Chuyện tìm được mấy cuốn sách là thế nào vậy?’ ”
Chú thích:
1. Tiếng Đức; Chào buổi sáng
2. Hanseatic League (còn gọi là Hanse hay Hansa) là một liên minh gồm phường hội của các thành phố chuyên buôn bán, được thành lập để duy trì tình trạng độc quyền thương mại ở vùng duyên hải Bắc Âu, tồn tại từ khoảng thế kỷ 13 đến 17.