Truy Tìm Dracula

Chương 50 :

Ngày đăng: 13:57 19/04/20


“Turgut Bora và Selim Aksoy đang chờ chúng ta ở phi trườngIstanbul. ‘Paul!’ Turgut ôm hôn và vỗ vỗ lên vai cha. ‘Chào bà giáo sư!’ Ông bắt tay Helen bằng cả hai tay. ‘Ơn trời các bạn vẫn bình yên và mạnh khỏe. Chào mừng chiến thắng trở về!’



“ ‘Chà, tôi không gọi chuyến đi này là chiến thắng đâu,’ cha trả lời, bật cười dù không định thế.



“ ‘Chúng ta sẽ nói chuyện sau, chúng ta sẽ nói chuyện sau!’ Turgut vừa hét lên vừa vỗ mạnh lên lưng cha. Selim Aksoy nối tiếp tất cả những ồn ào đó bằng một câu chào trầm lặng hơn. Một giờ đồng hồ sau, chúng ta đã đứng trước cửa căn hộ của Turgut, nơi bà Bora rõ ràng là tươi hẳn nét mặt trước sự xuất hiện trở lại của chúng ta. Cả Helen và cha đều trầm trồ khi thấy bà: hôm nay bà diện bộ cánh màu xanh rất nhạt, trông như một đóa hoa xuân nhỏ bé. Bà nhìn chúng ta, vẻ bối rối. ‘Chúng tôi thích bộ đồ của bà quá!’ Helen reo lên và nắm bàn tay nhỏ nhắn của bà Bora trong bàn tay thanh mảnh của mình.



“Bà Bora cười lớn. ‘Cám ơn các bạn,’ bà đáp. ‘Còn tôi muốn lôi tất cả đám quần áo của mình ra tòa mà thôi.’ Sau đó, bà và Selim Aksoy mời chúng ta uống cà phê và ăn một món mà bà gọi là bưrek, bánh nướng nhân pho mát mặn, cùng một bữa tối năm sáu món.



“ ‘Nào, các bạn, kể cho tôi xem mình biết được những gì đi chứ.’



“Đó là một nhiệm vụ nặng nề, nhưng rồi cha và Helen vẫn cùng nhau kể cho ông những việc đã xảy ra tại hội nghị ở Budapest, cuộc gặp gỡ với Hugh James, câu chuyện của mẹ Helen, những lá thư của thầy Rossi; Turgut trố mắt lắng nghe khi cha mô tả việc Hugh James tìm thấy cuốn sách có hình con rồng. Khi kể lại chi tiết tất cả những chuyện đó, cha cảm thấy quả thực mình đã biết thêm được nhiều điều. Nhưng đáng buồn thay, chẳng điều nào cho biết thầy Rossi đang ở đâu.



“Đến lượt Turgut kể với chúng ta là họ đã gặp những rắc rối nghiêm trọng trong thời gian chúng ta vắng mặt ở Istanbul; hai đêm trước, người bạn tử tế của ông, ông bạn chuyên viên lưu trữ, đã bị tấn công lần thứ hai trong căn hộ mà lúc này ông ta đang tĩnh dưỡng. Người đầu tiên mà họ thuê trông nom ông ta đã ngủ khi đang làm nhiệm vụ và không trông thấy gì cả. Bây giờ họ đã có một người bảo vệ mới, người mà họ hy vọng sẽ cẩn thận hơn. Họ đang phòng ngừa mọi bất trắc, nhưng ông Erozan khốn khổ lại không được khỏe lắm.



“Họ cũng còn một tin tức khác. Turgut nốc tách cà phê thứ hai và bước vội về căn phòng làm việc ghê rợn của mình để lấy một thứ gì đó. (Cha thấy nhẹ cả người khi không bị mời vào căn phòng đó hôm nay). Turgut xuất hiện trở lại, mang theo một cuốn sổ và ngồi xuống bên cạnh Selim Aksoy. Cả hai nhìn chúng ta, vẻ trầm trọng. ‘Như đã nói với anh qua điện thoại, trong thời gian các bạn vắng mặt chúng tôi đã tìm thấy một lá thư,’ Turgut nói. ‘Nguyên bản lá thư được viết bằng tiếng Xlavơ, một ngôn ngữ cổ của các nhà thờ Thiên Chúa giáo. Như tôi đã nói với anh, lá thư do một tu sĩ đến từ vùng núi Carpates viết về những chuyến đi của ông ta đến Istanbul. Anh bạn Selim đã ngạc nhiên khi thấy lá thư không viết bằng tiếng Latin, nhưng có lẽ vị tu sĩ này là người Xlavơ. Tôi đọc lướt qua nhé?’



“ ‘Tất nhiên,’ cha trả lời, nhưng Helen đưa tay lên ngăn lại.



“ ‘Gượm đã nào, thưa giáo sư. Hai người đã tìm thấy lá thư ở đâu và như thế nào?’



“Turgut gật đầu vẻ đồng tình. ‘Thực ra, anh Aksoy đã tìm thấy nó trong trung tâm lưu trữ - nơi các bạn cùng viếng thăm với chúng tôi. Anh ấy mất ba ngày để xem xét tất cả bản thảo viết tay của thế kỷ mười lăm trong trung tâm lưu trữ đó và đã tìm thấy lá thư này trong một bộ tài liệu của các nhà thờ ngoại đạo - tức nhà thờ đạo Thiên Chúa giáo được phép duy trì hoạt động trong thời trị vì của Người Chinh phục và những Quốc vương kế vị ông ta. Không có nhiều bộ tài liệu như vậy trong trung tâm lưu trữ vì chúng thường được các tu viện, và nhất là giáo trưởng thành Constantinople lưu giữ lại. Nhưng một số tài liệu của nhà thờ đã lọt vào tay Quốc vương Mehmed, đặc biệt là các tài liệu liên quan đến những thỏa thuận mới đối với các nhà thờ dưới thời đế quốc - một thỏa thuận như vậy được gọi là một sắc chỉ. Thỉnh thoảng, vị Quốc vương này nhận những lá thư - người ta gọi là gì nhỉ? - thư thỉnh cầu về một vấn đề nào đó của nhà thờ, trong trung tâm lưu trữ cũng có những lá thư như vậy.’



“Turgut dịch nhanh lời Aksoy, anh muốn ông giải thích thêm một điều gì khác. ‘Vâng, anh bạn tôi muốn nói rõ về chuyện đó. Anh ta nhắc tôi là chẳng bao lâu sau khi chiếm được thành phố, Người Chinh phục đã bổ nhiệm một giáo trưởng mới cho người Thiên Chúa giáo, giáo trưởng Gennadius.’ Aksoy vừa lắng nghe vừa gật đầu lia lịa. ‘Và vị Quốc vương cùng Gennadius đã có mối giao tình rất thân mật - tôi đã nói với các bạn là Người Chinh phục rất khoan dung với tín đồ Thiên Chúa giáo trong đế quốc của mình một khi đã chinh phục được họ. Quốc vương Mehmed đã yêu cầu Gennadius viết một bản giải trình về đức tin Chính Thống giáo rồi cho dịch một bản dành cho thư viện riêng của mình. Trung tâm lưu trữ có một bản sao bản dịch này. Ngoài ra ở đó còn có bản sao các hiến chương của một vài nhà thờ được đệ trình lên Người Chinh phục. Trong khi lướt qua một trong các bản hiến chương của một nhà thờ ở Tiểu Á, anh Aksoy đã phát hiện ra lá thư này kẹp giữa hai trang bản hiến chương đó.’



“ ‘Cám ơn ông.’ Helen ngồi lại xuống ghế nệm.



“ ‘Than ôi, chúng tôi không thể đưa cho các bạn xem bản gốc, vì tất nhiên là chúng tôi không được phép mang lá thư đó ra khỏi trung tâm lưu trữ rồi. Nếu muốn, các bạn có thể đến xem tận mắt trong thời gian còn ở lại đây. Lá thư đó là một tờ giấy da nhỏ, một rìa bị xé rách và chữ viết tay rất đẹp. Bây giờ, tôi sẽ đọc bản dịch tiếng Anh. Xin nhớ đây là bản dịch của một bản dịch, và qua quá trình đó một vài điểm có thể không còn ý nghĩa nguyên thủy của nó.’



“Và ông đã đọc cho chúng ta bản dịch sau:



Thưa Đức cha tu viện trưởng Maxim Eupraxius:
“Turgut chồm tới, đặt bản dịch sang tiếng Anh lá thư của vị tu sĩ trước mặt cha. ‘Ông ta cũng không biết.’



“ ‘Ai kia chứ?’ cha rên lên.



“ ‘Sư huynh Kiril. Nghe đây, anh bạn, giáo sư Rossi mất tích từ khi nào?’



“ ‘Hơn hai tuần rồi,’ cha trả lời.



“ ‘Anh đừng để hao phí thời gian thêm nữa. Chúng ta đã biết Dracula không có trong hầm mộ của hắn ở Snagov. Chúng ta cho rằng hắn không được chôn ở Istanbul. Nhưng’ - ông gõ gõ lên tờ giấy - ‘đây là một chứng cứ. Về cái gì, chúng ta chưa biết, nhưng vào năm 1477, một ai đó từ tu viện Snagov đã đi Bungari - hoặc cố gắng tới đó. Đây là một việc đáng để tìm hiểu. Nếu anh không tìm thấy điều gì, anh cũng đã làm hết sức mình. Lúc đó anh có thể trở về nhà mà khóc thương ông thầy của mình với một tấm lòng thanh thản, còn chúng tôi, bạn anh, sẽ ghi nhớ mãi lòng dũng cảm của anh. Nhưng nếu anh không cố gắng, anh sẽ luôn băn khoăn và không bao giờ nguôi ngoai được nỗi buồn đau của mình.’



“Ông lại cầm bản dịch lên, rà ngón tay trên tờ giấy rồi đọc to, ‘ “Đối với chúng tôi, hiện tại phải lưu lại nơi này dù chỉ một ngày cũng là vô cùng nguy hiểm, chúng tôi sẽ an toàn hơn dù đang trên đường đi giữa những vùng đất ngoại đạo.” Đây, anh bạn. Hãy cất bản dịch này vào túi xách. Đây là bản của anh, bản tiếng Anh. Kèm theo đây là một bản tiếng Xlavơ mà ông bạn ở tu viện của anh Aksoy đã chép ra.’



“Turgut ngả người về phía trước. ‘Ngoài ra, tôi biết có một học giả ở Bungari mà các bạn có thể nhờ giúp đỡ. Tên ông ta là Anton Stoichev. Anh bạn Aksoy của tôi rất ngưỡng mộ các tác phẩm của ông ấy, vốn đã được xuất bản dưới nhiều thứ tiếng.’ Selim Aksoy gật đầu khi nghe cái tên đó. ‘Stoichev hiểu biết về vùng Balkan thời Trung cổ hơn bất kỳ người nào, đặc biệt là về Bungari. Ông ta ở gần Sofia - các bạn phảR hỏi thăm để tìm ra ông ấy.’



“Helen bất chợt nắm lấy tay cha, một cách công khai, khiến cha vô cùng ngạc nhiên; cha nghĩ chúng ta chưa nên công khai mối quan hệ ngay cả ở đây, trước những người bạn này. Cha thấy ánh mắt Turgut dừng lại nơi cử động nhỏ ấy. Những nếp nhăn nồng hậu chung quanh mắt và miệng ông như hằn sâu hơn, còn bà Bora nhìn chúng ta và nở nụ cười hiền hậu, đan đôi bàn tay nhỏ nhắn như tay con gái quanh đầu gối. Rõ ràng bà tán thành sự kết hợp của chúng ta, và cha như cảm nhận được những lời chúc phúc bất chợt từ những con người nhân hậu này.



“ ‘Được rồi, để em gọi cho bác em,’ Helen siết chặt tay cha và nói giọng dứt khoát.



“ ‘Bác Éva ư? Bác ấy có thể làm được gì?’



“ ‘Anh bRết đấy, bác Éva có thể làm bất kỳ điều gì.’ Helen mỉm cười với cha. ‘Không, em không biết chính xác bác ấy có thể hoặc sẽ làm gì. Nhưng bác ấy có bạn bè cũng như kẻ thù trong lực lượng cảnh sát mật của đất nước chúng ta’ - cô hạ giọng, có vẻ như một phản xạ vô điều kiện - ‘mà bọn họ thì lại có bạn bè khắp vùng Đông Âu này. Và lẽ dĩ nhiên, cả kẻ thù nữa - tất thảy bọn họ đều canh chừng lẫn nhau. Việc này có thể khiến bác ấy gặp chút nguy hiểm - đó là đRều duy nhất làm em cảm thấy hốR tiếc. Và chúng ta cũng sẽ cần một khoản đút lót rất, rất lớn đấy.’



“ ‘Tiền trà nước ấy mà.’ Turgut gật đầu. ‘Dĩ nhiên là vậy. Anh Selim và tôi đã nghĩ đến chuyện đó. Các bạn có thể sử dụng hai mươi ngàn lia mà chúng tôi có. Và mặc dù không thể cùng đi với các bạn nhưng tôi sẽ hỗ trợ bất cứ việc gì có thể, anh Aksoy cũng vậy.’



“Lúc đó, cha nhìn sững ông, và cả Aksoy nữa - họ ngồi ngay trước mặt chúng ta, không đụng đến cốc cà phê, người thẳng đơ và nghiêm túc. Một nét gì đó trên mặt họ - khuôn mặt to hồng hào của Turgut, khuôn mặt thanh tú của Aksoy, sự tinh tường, điềm tĩnh nhưng cũng vô cùng cảnh giác trên gương mặt cả hai - bỗng trở nên quen thuộc với cha. Một cảm giác cha không thể gọi tên chợt trào dâng trong cha; trong khoảnh khắc, cảm xúc đó như níu lại câu hỏi trên miệng cha. Rồi cha siết tay Helen chặt hơn trong tay mình - bàn tay mạnh mẽ, rắn chắc mà thành thân thương ấy - và nhìn vào đôi mắt đăm đăm tối đen của Turgut.



“ ‘Ông là ai?’ cha gằn giọng.



“Turgut và Selim liếc nhìn nhau, và có vẻ như đang ngầm trao đổi một điều gì đó. Rồi Turgut lên tiếng, giọng trầm nhưng rõ ràng. ‘Chúng tôi phụng sự Quốc vương.’ ”