Truy Tìm Dracula
Chương 55 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
“Mấy năm trở lại đây, cha thấy mình cứ không ngơi nhớ về lần đầu tiên nhìn thấy ngôi nhà của Anton Stoichev. Có lẽ nó để lại trong cha ấn tượng sâu đậm như vậy vì sự tương phản giữa thành phố Sofia và nơi trú ngụ của ông, ở ngay bên ngoài thành phố, hoặc có thể cha thường nhớ đến nó vì chính bản thân Stoichev - sự đặc biệt và tinh tế của con người ông. Tuy nhiên, cha nghĩ mình cảm thấy một niềm hy vọng mãnh liệt đến nín thở khi hồi tưởng lại hình ảnh cánh cổng trước căn nhà của Stoichev, bởi buổi gặp giữa ông ấy và chúng ta là bước ngoặt trong cuộc tìm kiếm thầy Rossi.
“Mãi sau này, khi đọc về các tu viện nằm ngoài thành Constantinople, những chốn linh thiêng nơi đôi lúc người ta đến trú ngụ để tránh không phải thi hành những sắc dụ toàn thành phố về điểm này điểm kia trong lễ nghi nhà thờ, nơi họ không được bảo vệ bởi những bức tường vĩ đại của thành phố nhưng ở một mức độ nào đó lại thoát khỏi cái vòi bạch tuộc bạo ngược của nhà nước, cha lại nghĩ đến Stoichev - mảnh vườn nhà ông, những cây táo và anh đào nghiêng nghiêng nở đầy hoa trắng, ngôi nhà nằm sâu trong sân, những chiếc lá non trên cành và các tổ ong màu xanh, hai cánh cổng gỗ cũ kỹ, không gian tĩnh lặng bao trùm nơi ấy, không khí của lòng mộ đạo, của chốn ẩn dật thong dong tự tại.
“Chúng ta đứng trước cánh cổng đó trong lúc bụi lắng xuống xung quanh chiếc xe của Ranov. Helen là người đầu tiên đẩy tay nắm của một trong những then cửa cũ kỹ kia; Ranov sưng sỉa đi tụt lại phía sau, tựa như không muốn bị ai nhìn thấy ở nơi đó, thậm chí là chúng ta, và thực kỳ lạ cha có cảm giác như mình đang chôn chân tại chỗ. Mất một lúc cha như bị thôi miên bởi sự dao động giữa buổi sớm của lá và ong, và bởi một cảm giác sợ hãi không mong đợi. Cha nghĩ, có thể Stoichev hóa ra lại không giúp được gì, một giải pháp cuối cùng không lối thoát, và như vậy chúng ta sẽ phải trở về nhà sau khi đã đi một chặng đường dài vô ích. Cha đã hình dung tình huống này hàng trăm lần: chuyến bay thầm lặng về New York từ Sofia hoặc Istanbul - cha nghĩ mình muốn gặp lại Turgut một lần nữa - và sắp xếp lại cuộc sống của mình ở quê nhà, một cuộc sống không có thầy Rossi, những câu tra hỏi cha đã đi đâu, các vấn đề nảy sinh với khoa trong thời gian dài cha vắng mặt, việc quay lại viết tiếp về giới thương nhân Hà Lan - những kẻ bình tĩnh chán ngắt - dưới sự dẫn dắt của một vị giáo sư hướng dẫn mới năng lực kém xa thầy Rossi, và cánh cửa đóng kín của phòng làm việc thầy Rossi. Hơn tất thảy, cha khiếp sợ cánh cửa đóng kín đó, sợ cuộc điều tra đang diễn ra, sợ sự tra vấn khó chịu của cảnh sát - ‘Vậy... ông... ờ… ông Paul… đúng chứ? Ông đã thực hiện một chuyến đi chỉ hai ngày sau khi thầy hướng dẫn của mình mất tích?’ - sợ những cuộc triệu tập nho nhỏ khó hiểu với không khí như thể ở lễ truy điệu, kết thúc bằng câu hỏi về những cuốn sách, tác quyền và di sản của thầy Rossi.
“Dĩ nhiên, quay trở về tay trong tay với Helen sẽ là một niềm an ủi lớn. Cha định hỏi cưới cô khi toàn bộ chuyện khủng khiếp này kết thúc, cách này hay cách khác; nếu có thể, trước tiên cha phải dành dụm một ít tiền, rồi cha sẽ đưa cô đến Boston gặp ông bà. Đúng vậy, cha sẽ trở về nắm tay cô trong tay mình, nhưng sẽ không có người cha nào cầm lấy bàn tay đó trong lễ cưới. Cha thoáng cảm thấy một nỗi đau đớn mơ hồ khi Helen mở cánh cổng.
“Phía bên trong, ngôi nhà của Stoichev nằm êm đềm trên một khu đất gập ghềnh mà một phần là sân và phần còn lại là vườn cây ăn quả. Phần móng nhà xây bằng một loại đá xám nâu nhạt, kết dính với nhau bằng thạch cao trắng; sau này cha mới biết đó là một trong những loại đá hoa cương được sử dụng ở hầu hết các công trình xây dựng cổ của Bungari. Trên lớp nền móng là tường gạch, nhưng là loại gạch có màu đỏ vàng mượt mà nhất, tưởng chừng như đã thấm đẫm ánh mặt trời qua hàng bao nhiêu năm tháng. Mái được lợp ngói đỏ. Cả mái và tường nhà đều hơi xiêu vẹo. Toàn bộ ngôi nhà trông có vẻ như đã dần dần mọc lên từ mặt đất và bây giờ đang chậm rãi trở về với cát bụi, và đám cây cối mọc bên trên tựa như chỉ để phủ bóng lên cái tiến trình đó. Tầng trệt có một cái chái nhô ra một bên hông, cạnh hông bên kia căng một giàn lưới mắt cáo, bên trên phủ đầy dây nho và bên dưới dọc theo bờ tường là những cụm hoa hồng phớt. Phía dưới giàn lưới mắt cáo là một bàn gỗ và bốn chiếc ghế thô mộc, cha hình dung đó là chỗ sẽ rợp bóng mát của những chùm lá nho vào mùa hè. Bên ngoài giàn nho, và dưới gốc táo già nhất, đong đưa hai tổ ong hình thù quái dị; gần đó, một mảnh vườn nhỏ với những luống rau xanh mướt thẳng thớm nằm trong ánh nắng ngập tràn, chứng tỏ có sự chăm sóc tỉ mỉ của bàn tay ai đó. Cha có thể ngửi thấy mùi thảo mộc và một thứ mùi có lẽ là oải hương, mùi cỏ tươi và mùi hành rán. Ai đó đã chăm nom gìn giữ chốn xưa cũ này bằng sự nâng niu trìu mến, và cha phần nào nghĩ rằng sẽ nhìn thấy Stoichev mặc đồ tu sĩ, đang quỳ trong mảnh vườn với một cái xẻng trồng cây.
“Rồi, một giọng hát bắt đầu trỗi lên bên trong, có lẽ gần bên ống khói đổ nát và các cửa sổ tầng trệt. Đó không phải là giọng nam trung của một người đàn ông sống ẩn dật, mà là một giọng nữ cao ngọt ngào, một giai điệu mãnh liệt thậm chí khiến cả tay Ranov đang phì phèo điếu thuốc và cau cau có có bên cạnh cha cũng có vẻ thích thú. ‘Izvinete!’ gã thốt lên. ‘Dobar den!’ Tiếng hát ngưng lại đột ngột, tiếp theo là tiếng lách cách và một tiếng thịch. Cánh cửa trước nhà Stoichev bật mở và một cô gái đứng đó, nhìn chúng ta chằm chằm, tựa như cô ta không tưởng tượng được trong sân nhà mình lại có hình bóng con người.
“Cha dợm bước tới, nhưng Ranov đã chen ngang, nhấc mũ, gật đầu, nghiêng người chào cô theo kiểu cách người Bungari. Cô gái đưa hai tay ôm má, nhìn Ranov với ánh mắt tò mò, cha nhận ra trong đó dường như còn có vẻ cảnh giác nữa. Nhìn kỹ thì cô không hẳn trẻ như cha nghĩ, nhưng từ người cô toát ra một sức sống mạnh mẽ và sinh động khiến cha nghĩ có thể cô là tác giả của mảnh vườn nhỏ nhiều màu sắc và những mùi thơm trong bếp kia. Mái tóc chải ngược ra sau để lộ một gương mặt tròn trĩnh; một nốt ruồi đen trên trán. Mắt, miệng và cằm giống như của một đứa bé xinh xắn. Tạp dề khoác bên ngoài áo cánh trắng và váy xanh. Cô gái dò xét chúng ta bằng một cái liếc nhìn sắc lẻm trái ngược hẳn với vẻ ngây thơ trong mắt, và cha nhận thấy sau những câu tra vấn nhanh của cô, Ranov thậm chí đã phải mở ví cho cô xem một cái thẻ. Dù là con gái hay người giúp việc - liệu giáo sư về hưu có được phép thuê người giúp việc trong một đất nước cộng sản? - thì rõ ràng cô ta không phải là người khờ dại. Dường như Ranov đang nỗ lực khác thường để tỏ ra quyến rũ; gã vừa cười vừa quay lại giới thiệu chúng ta. ‘Đây là cô Irina Hristova,’ gã giải thích khi chúng ta bắt tay nhau. ‘Cô ấy là ness của giáo sư Stoichev.’
“ ‘Nest - tổ chim(1)_ hả?’ cha hỏi, thoáng nghĩ đây có thể là một cách gọi ẩn dụ tinh tế nào đó.
“ ‘Con gái của bà chị,’ Ranov trả lời. Gã châm điếu thuốc khác và mời Irina một điếu nhưng cô từ chối bằng một cái gật đầu dứt khoát. Khi gã giải thích là chúng ta từ Mỹ đến, cô tròn xoe mắt nhìn chúng ta chăm chú. Rồi cô gái bật cười, cha chưa bao giờ hiểu ý nghĩa nụ cười đó là gì. Ranov lại quắc mắt cau có - cha không nghĩ mới khoảnh khắc trước đây gã có thể tỏ ra vui vẻ như vậy - và cô gái quay người dẫn chúng ta vào.
“Ngôi nhà lại làm cho cha ngạc nhiên; bên ngoài nó có thể là một trang trại cổ xưa xinh xắn, nhưng bên trong, trong ánh sáng mờ mờ tương phản hoàn toàn với ánh mặt trời của khoảnh sân phía trước, ngôi nhà thực sự là một viện bảo tàng. Cánh cửa mở thẳng vào một căn phòng lớn có lò sưởi, ánh nắng chiếu lên mặt đá thay vì một ngọn lửa. Bản thân đồ đạc trong nhà trông rất bắt mắt - những chiếc tủ com mốt màu đen, gắn gương, chạm khắc cầu kỳ và những chiếc ghế dựa, ghế bành sang trọng - nhưng thứ làm cha không thể rời mắt và khiến Helen trầm trồ thán phục là sự hòa hợp hiếm thấy giữa chất liệu vải dân gian và những vật trang trí - phần lớn là ảnh thánh cổ, nhiều ảnh trong số đó, theo cha, có chất lượng vượt hẳn những ảnh thánh chúng ta nhìn thấy trong các nhà thờ ở Sofia. Có những bức ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh mắt sáng ngời, những ảnh lớn nhỏ khác nhau của các vị thánh môi mỏng, mặt mày buồn bã, nổi bật nước sơn mạ vàng hoặc bọc miếng dát bạc, ảnh các đấng tông đồ đang đứng trong thuyền và các thánh tử đạo đang kiên trì trải qua những khổ nạn của mình. Sắc màu phong phú cổ xưa và ám khói hiển hiện ở mọi phía, từ những tấm thảm đến những chiếc tạp dề dệt thành đủ kiểu hoa văn kỷ hà, thậm chí một bộ áo giáp thêu và một cặp khăn quàng cũng điểm thêm những đồng xu nhỏ tí. Helen trỏ những chiếc túi nằm ngang thân dưới bộ áo giáp. ‘Để chứa đạn,’ cô chỉ nói có vậy.
“Kế bên chiếc áo là một cặp dao găm. Cha những muốn hỏi ai là người đã mặc bộ áo giáp đó, ai đã từng giữ túi đạn, ai đã mang những con dao găm kia. Ai đó đã cắm một bình hoa hồng và dương xỉ xanh ở cái bàn bên dưới, trông có vẻ sống động dị thường giữa tất cả những báu vật đang phai tàn này. Nền nhà bóng loáng. Cha có thể nhìn thấy ở phía bên kia một phòng khác, tương tự.
“Ranov cũng nhìn quanh, và giờ thì gã khịt mũi. ‘Theo quan điểm của tôi, ông giáo sư Stoichev này được phép giữ quá nhiều tài sản quốc gia. Những món này lẽ ra phải bán đi vì lợi ích của nhân dân.’
“Irina hoặc không hiểu tiếng Anh hoặc không thèm trả lời câu nói đó; cô quay đi, dẫn chúng ta ra khỏi phòng và leo lên một cầu thang hẹp. Cha cũng không biết mình mong nhìn thấy điều gì ở phía trên nữa. Có lẽ chúng ta sẽ nhìn thấy một căn phòng nhỏ bừa bộn, một cái hang để vị giáo sư già trú ẩn, hoặc có lẽ, cha nghĩ - với sự ray rứt đau khổ giờ đã thành quen thuộc - chúng ta có thể thấy một phòng làm việc gọn gàng ngăn nắp kiểu như cái phòng làm việc ẩn tàng trí tuệ dữ dội và tuyệt vời cỡ thầy Rossi. Những hình ảnh tưởng tượng này biến mất khi cánh cửa phía trên cầu thang mở ra, một người đàn ông tóc bạc trắng, nhỏ người, nhưng rắn rỏi, xuất hiện ở đầu cầu thang. Irina vội vàng đến bên cạnh, dùng cả hai tay nắm chặt cánh tay người đàn ông, liến thoắng gì đó bằng tiếng Bungari cùng với vài tiếng cười phấn khích.
“Cha cảm thấy trào dâng một cảm giác biết ơn đối với người đàn ông uyên bác và có đôi tai biết lắng nghe tuyệt vời này. Những lời bình luận của cha gần như là ngớ ngẩn, vô nghĩa, tuy nhiên ông đã trả lời với thái độ thận trọng đúng mực, rất lịch sự, đó là chưa kể về khía cạnh thông tin.
“ ‘Chính xác,’ cha thốt lên. ‘Và chúng tôi đặc biệt quan tâm - chúng tôi đã phát hiện ra một lá thư - nghĩa là, chúng tôi vừa mới ở Istanbul’ - cha thận trọng không liếc nhìn về phía Ranov - ‘và chúng tôi tìm thấy một lá thư có liên quan đến Bungari - một nhóm các tu sĩ đã đi từ Constantinople đến một tu viện ở Bungari. Chúng tôi quan tâm đến chi tiết này vì mục tiêu của một trong các bài báo của chúng tôi là vạch lại con đường họ đã đi ngang qua Bungari. Có lẽ họ đi hành hương - nhưng chúng tôi không hoàn toàn chắc chắn về điều đó.’
“ ‘Tôi hiểu,’ Stoichev nói. Đôi mắt ông có vẻ thận trọng hơn và ngời sáng hơn bao giờ hết. ‘Lá thư đó có đề ngày tháng chứ? Liệu các bạn có thể cho tôi biết sơ qua về nội dung của nó hoặc ai là người viết, nếu các bạn biết, và các bạn đã tìm thấy nó ở đâu? Nó được gửi cho ai, vân vân, nếu các bạn biết được những điều đó?’
“ ‘Chắc chắn rồi,’ cha nói. ‘Thực ra, chúng tôi có mang theo ở đây một bản sao. Bản chính viết bằng chữ Xlavơ, một tu sĩ ở Istanbul đã chép lá thư lại cho chúng tôi. Bản chính hiện đang ở trung tâm lưu trữ tư liệu về Mehmed II của nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ. Có lẽ ông muốn tự đọc lá thư này.’ Cha mở cặp, lấy bản sao lá thư trao cho ông, thầm hy vọng sau đó Ranov sẽ không đòi xem.
“Stoichev cầm lá thư, cha thấy ánh mắt ông lướt qua những dòng mở đầu. ‘Thú vị đấy,’ ông nói, và cha cảm thấy thất vọng khi ông đặt lá thư xuống bàn. Có lẽ rốt cuộc ông sẽ không giúp chúng ta, hoặc thậm chí không thèm đọc lá thư. ‘Cháu yêu,’ ông lên tiếng, quay về phía cô cháu gái. ‘Chúng ta không thể đọc những lá thư cổ xưa này mà không mời các vị khách của chúng ta ăn uống một cái gì đó. Cháu mang cho chúng ta rượu rakiya và một ít gì đó để ăn trưa nhé?’ Ông hướng về phía Ranov, gật đầu vẻ vô cùng lịch thiệp.
“Irina mỉm cười, đứng dậy ngay. ‘Được chứ, thưa cậu,’ cô gái trả lời bằng giọng Anh chuẩn. Cha trộm nghĩ chẳng có giới hạn nào cho những điều ngạc nhiên trong ngôi nhà này. ‘Nhưng cháu cần giúp mang đồ lên cầu thang.’ Cô đưa đôi mắt trong veo khẽ liếc Ranov một cái, gã đứng dậy, vuốt tóc.
“ ‘Tôi xin hân hạnh được giúp cô, thưa quý cô,’ gã nói, và cả hai bước xuống cầu thang, Ranov bước thùm thụp trên các bậc cấp, Irina liến thoắng gì đó với gã bằng tiếng Bungari.
“Ngay khi cánh cửa khép lại phía sau lưng Irina và Ranov, Stoichev nghiêng người về phía trước, ngốn ngấu đọc lá thư với vẻ tập trung cao độ. Khi đọc xong, ông ngước nhìn chúng ta. Gương mặt ông như già đi cả mười tuổi, và căng thẳng nữa. ‘Chuyện này quả thực đặc biệt,’ ông trầm giọng. Theo bản năng, chúng ta cùng bật dậy, đến ngồi sát bên ông, ở đầu chiếc bàn dài thượt. ‘Tôi rất kinh ngạc khi thấy lá thư này.’
“ ‘Vâng… gì cơ?’ cha hỏi, giọng nôn nóng. ‘Ông có ý tưởng gì về ý nghĩa có thể có của lá thư này chăng?’
“ ‘Một chút thôi.’ Mắt Stoichev mở to, nhìn cha chăm chú. ‘Vấn đề là,’ ông nói tiếp, ‘tôi cũng có một trong các lá thư của Sư huynh Kiril.’ ”
Chú thích:
1. Tác giả ngụ ý nhân vật Ranov phát âm không chuẩn, từ NIECE thành NESS - gần như đồng âm của từ NEST (tổ chim).