Truy Tìm Dracula
Chương 57 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
“Khi Stoichev cho biết ông cũng có một trong các lá thư của Sư huynh Kiril, Helen và cha trố mắt nhìn nhau, sửng sốt. ‘Ý ông là sao?’ cuối cùng Helen thốt lên.
“Stoichev gõ gõ ngón tay lên bản sao lá thư của Turgut, vẻ kích động. ‘Năm 1924, ông bạn Atanas Angelov của tôi đã trao cho tôi một lá thư viết tay. Nó thuật lại một giai đoạn khác của cuộc hành trình này, tôi chắc chắn như vậy. Tôi không biết liệu còn tồn tại bất kỳ tài liệu nào khác nói về các chuyến đi này nữa không. Thực ra, ông bạn khốn khổ của tôi đã bất ngờ qua đời ngay sau khi trao lá thư cho tôi. Xin chờ một lát…’ Ông đứng bật dậy, vội vàng đến độ lảo đảo suýt ngã, cả Helen và cha đều lao đến để đỡ ông. Tuy nhiên, ông tự đứng thẳng trở lại mà không cần đến sự trợ giúp nào rồi bước vào một trong các phòng nhỏ hơn, ra hiệu cho chúng ta đi theo và tránh vấp vào những đống sách xếp dọc vách tường. Stoichev dò tìm trên các ngăn kệ và với tay lên một cái hộp, cha phải giúp ông lấy nó xuống. Ông lôi từ trong hộp ra một tập hồ sơ bìa cứng, được cột lại bằng loại dây thừng tước nhỏ. Mang tập hồ sơ trở lại bàn, Stoichev mở nó trước cặp mắt háo hức của chúng ta, kéo ra một tài liệu mỏng mảnh đến mức cha cảm thấy rùng mình khi nhìn ông cầm nó trong tay. Ông đứng lặng nhìn trang giấy một lúc lâu, tựa như bị tê liệt, rồi buông một tiếng thở dài. ‘Như các bạn thấy, đây là bản gốc. Chữ ký…’
“Chúng ta cúi xuống trang giấy, và cha chợt nổi da gà khi nhìn thấy ở đó một cái tên viết bằng chữ Kiril(1), nét chữ thanh tú, ngay cả cha cũng có thể đọc hiểu cái tên ấy - Kiril - và cái niên đại kia: 6985. Cha nhìn Helen, cô đang cắn môi. Cái tên đã phai mờ của vị tu sĩ hiển hiện như một sự thực sờ sờ trước mắt. Ông ta đã từng sống như chúng ta đang sống, đã từng cầm một cây bút lông ngỗng viết lên tờ giấy da này, bằng một bàn tay ấm nóng và sinh động.
“Stoichev trông có vẻ kinh sợ giống như cha, mặc dù nhìn thấy một bản thảo cổ viết tay hẳn là một phần công việc hàng ngày của ông. ‘Tôi đã dịch nó sang tiếng Bungari,’ một lúc sau ông nói, rồi rút ra một tờ giấy khác, loại giấy vỏ hành mỏng. Chúng ta ngồi xuống. ‘Tôi sẽ cố gắng đọc cho các bạn.’ Ông hắng giọng rồi dịch thẳng từ tiếng Bungari ra cho chúng ta nghe, một phiên bản tuy chưa trau chuốt nhưng khá hoàn chỉnh của bức thư sau này được dịch ra rộng rãi.
Thưa Đức cha tu viện trưởng Maxim Eupraxius,
Tôi cầm bút để hoàn thành bổn phận mà tôi phải gánh vác theo sự sắp đặt sáng suốt của ngài, cũng như để tường thuật chi tiết sứ mệnh của chúng tôi. Cầu cho tôi hoàn thành sứ mệnh và thỏa mãn những mong ước của ngài, nhờ ơn Thượng đế phù trợ. Đêm nay, chúng tôi đã ngủ lại ở tu viện Thánh Vladimir gần Virbius, cách ngài hai ngày đường, các sư huynh sùng đạo ở đó đã đón tiếp chúng tôi nhân danh ngài rất chân tình. Như ngài chỉ dạy, tôi đã một mình đến gặp và bộc bạch với cha tu viện trưởng sứ mệnh của chúng tôi, hoàn toàn bí mật, không có sự hiện diện của một tu sĩ hay người hầu nào. Ông đã ra lệnh khóa chiếc xe ngựa của chúng tôi vào chuồng ngựa ở sân trong, dưới sự canh gác của hai tu sĩ ở tu viện và hai người trong nhóm chúng tôi. Tôi hy vọng có thể thường xuyên nhận được sự cảm thông và bảo vệ như vậy, ít nhất là cho đến khi chúng tôi bắt đầu tiến vào những xứ sở ngoại đạo. Như ngài chỉ dạy, tôi đã trao tận tay cha tu viện trưởng cuốn sách có các huấn thị của ngài, tôi thấy ông giấu cuốn sách ngay tức khắc, thậm chí còn không mở nó ra trước mặt tôi.
Lũ ngựa đã mệt mỏi sau chuyến leo núi nên chúng tôi sẽ nghỉ ở đây thêm một đêm nữa. Hiện tại, chúng tôi đã hồi phục nhờ sự giúp đỡ của nhà thờ ở đây, trong nhà thờ này có hai ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh tám mươi năm về trước đã thực hiện những điều diệu kỳ. Một ảnh thánh vẫn còn nhỏ nước mắt nhiệm màu để than khóc cho một kẻ tội lỗi, những giọt nước mắt giờ đã trở thành trân châu quý hiếm. Chúng tôi đã dâng lên Đức Mẹ những lời cầu nguyện thiết tha nhất, xin Người bảo vệ sứ mệnh của chúng tôi, xin cho chúng tôi có thể an toàn đến thành phố vĩ đại và thậm chí trong hang ổ của kẻ thù cũng tìm được một nơi trú ẩn để từ đó cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nhân danh Cha, Con, và Thánh thần - Kẻ tôi tớ hèn mọn của ngài,
Sư huynh Kiril
Tháng Tư, năm của Chúa 6985
“Cả Helen và cha gần như không dám thở trong khi Stoichev đọc bản dịch. Ông dịch chậm rãi, có phương pháp và đầy lão luyện. Lúc cha suýt kêu to lên vì sự liên quan không thể chối cãi giữa hai lá thư thì tiếng bước chân thình thịch trên cầu thang gỗ làm tất cả chúng ta phải ngước lên. ‘Họ đang quay trở lại,’ Stoichev khẽ nói. Ông cất lá thư đi, và cha cũng tạm thời để ông ta giữ bản sao lá thư của chúng ta cho an toàn. ‘Gã Ranov ấy… anh ta được phân công làm người hướng dẫn cho các bạn à?’
“ ‘Đúng vậy,’ cha trả lời ngay. ‘Và anh ta có vẻ quá quan tâm đến công việc của chúng tôi ở đây. Chúng tôi phải nói với ông rất nhiều điều về cuộc tìm kiếm của mình, nhưng đó là việc khá bí mật và cũng…’ cha ngập ngừng.
“ ‘Nguy hiểm?’ Stoichev tiếp lời, quay gương mặt già nua kỳ lạ về phía chúng ta.
“Phải mất vài phút cha mới tìm ra lá thư quái quỷ đó trong mớ giấy tờ của mình, dò tìm đoạn thư và đọc cho Helen nghe, mắt cô mỗi lúc một mở to rồi dần tối sầm lại đầy kinh ngạc. ‘Em còn nhớ lá thư kể về việc thầy trở về Hy Lạp - về đảo Crete - như thế nào sau khi bị lấy mất tấm bản đồ ở Istanbul, rồi vận may của thầy trở thành vận rủi, và mọi chuyện trở nên xấu đi chứ?’ Cha đọc một mạch trang thư ngay trước mặt cô. ‘Em nghe này: “Những ông lão trong các quán rượu trên đảo Crete có vẻ như thích kể cho tôi nghe về hai trăm mười câu chuyện ma cà rồng của họ hơn là giải thích xem tôi có thể tìm ở đâu ra những mảnh gốm vỡ khác như mảnh gốm kia, hoặc những con tàu đắm cổ xưa nào cha ông họ đã lặn xuống để tìm chiếm cổ vật. Một tối nọ, tôi đã để một người lạ mặt mời mình một chầu thứ nước uống đặc sản địa phương có tên gọi rất quái dị là amnesia - quên lãng, hậu quả là tôi phải nằm bẹp suốt cả ngày hôm sau.” ’
“ ‘Ôi, lạy Chúa,’ Helen khẽ thốt lên.
“ ‘Tôi để một người lạ mặt mời uống một thứ gọi là amnesia - quên lãng,’ cha diễn giải, cố hạ giọng. ‘Em nghĩ gã lạ mặt quái quỷ đó là ai? Và đó là lý do vì sao thầy Rossi đã quên...’
“ ‘Ông đã quên...’ Helen như bị cái từ ấy thôi miên. ‘Ông đã quên đất nước Rumani...’
“ ‘... quên là thầy đã từng ở đó. Những lá thư gửi cho anh bạn Hedges viết rằng thầy từ Rumani trở về Hy Lạp để lấy một ít tiền và tham gia vào một vụ khai quật khảo cổ...’
“ ‘Và ông đã quên mẹ em,’ Helen kết luận, giọng lí nhí hầu như không thể nghe được.
“ ‘Mẹ em,’ cha lặp lại, chợt liên tưởng đến hình ảnh mẹ Helen đứng ở cửa dõi nhìn chúng ta ra đi. ‘Thầy chưa từng có ý định không quay trở lại. Thầy đã đột ngột quên tất cả mọi chuyện. Và đó là... đó là lý do vì sao thầy nói với anh thầy không thể nhớ rõ nghiên cứu ấy.’
“Khuôn mặt Helen giờ đã trắng bệch, hàm nghiến chặt, mắt rực lên vẻ khắc nghiệt và ngấn đầy nước mắt. ‘Em căm ghét hắn,’ cô khe khẽ nói, và cha biết cô không ám chỉ cha mình.”
Chú thích:
1. Phiên âm từ nguyên bản tiếng Anh Cyrillic, là bảng chữ cái sử dụng trong một số ngôn ngữ Xlavơ, chẳng hạn như tiếng Nga.
2. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "trà".
3. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "thưa cô".