Truy Tìm Dracula
Chương 59 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
“BIÊN NIÊN KÝ” CỦA ZACHARIAS Ở ZOGRAPHOU
Do Atanas Angelov và Anton Stoichev biên soạn
GIỚI THIỆU
“Biên niên ký” của Zacharias là một tài liệu lịch sử.
Bất chấp tình trạng không hoàn chỉnh rất đáng thất vọng, “Biên niên ký” của Zacharias cùng với tập ký “Chuyện kể của Stefan Kẻ Lãng Du” là một nguồn tư liệu quan trọng chứng thực những lộ trình hành hương của tín đồ Thiên Chúa giáo vùng Balkan thế kỷ mười lăm, cũng như thông tin về số phận thi hài ông hoàng Vlad III “Ţepeş” xứ Wallachia, từ lâu vốn được cho là đã được chôn cất tại tu viện hồ Snagov (hiện thuộc về Rumani). Nó cũng cung cấp cho chúng ta một miêu tả hiếm có về những người tử đạo vô danhWallachia (mặc dù chúng ta không thể biết chắc chắn nguồn gốc dân tộc của các tu sĩ ở Snagov, ngoại trừ Stefan, nhân vật chính của “Biên niên ký”). Chỉ có bảy người tử đạo khác được ghi nhận có gốc gác Wallachia, và không ai trong số này tuẫn đạo ở Bungari.
Tập “Biên niên ký” không tên này được viết bằng ngôn ngữ Xlavơ vào năm 1479 hoặc 1480 và do một tu sĩ tên Zacharias tại tu viện Zographou, núi Athos, Bungari ghi lại. Zographou, “tu viện của họa sĩ”, tọa lạc gần trung tâm bán đảo Athonite, thoạt tiên được thành lập vào thế kỷ thứ mười và đến những năm 20 của thế kỷ mười ba thì trực thuộc giáo hội Bungari. Cùng với tu viện Hilandar ở Serbia và Panteleimon ở Nga, tu viện Zographou không bị giới hạn trong quốc gia nơi tu viện tọa lạc; chính điều này và sự thiếu thông tin về Zacharias khiến ta không thể xác định gốc gác của ông: Zacharias có thể là người Bungari, Serbia, Nga, hoặc có lẽ là người Hy Lạp, mặc dù việc Zacharias sử dụng tiếng Xlavơ ủng hộ cho giả thuyết ông là người gốc Xlavơ. “Biên niên ký” chỉ cho chúng ta biết ông sinh ra vào thế kỷ mười lăm và được cha tu viện trưởng ở Zographou, vốn rất quý trọng tài năng của ông, chọn đích thân nghe lời xưng tội của Stefan Kẻ Lãng Du và ghi lại lời xưng tội này vì một mục đích quan trọng liên quan đến bộ máy quan chức giáo hội và có lẽ còn liên quan cả đến khía cạnh tâm linh nữa.
Các lộ trình Stefan đề cập trong chuyện kể của ông phù hợp với vài tuyến đường hành hương nổi tiếng. Constantinople là đích đến sau cùng của những người hành hương xứ Wallachia, cũng như tất cả tín đồ Thiên Chúa giáo ở phương Đông. Xứ Wallachia, và đặc biệt là tu viện ở hồ Snagov, cũng là một địa điểm hành hương và được biết tới như là con đường để người hành hương tiếp cận cả Snagov và Athos tại những vùng xa xôi nhất. Việc các tu sĩ băng qua Haskovo trên đường đến Bachkovo cho thấy có lẽ họ đã sử dụng đường bộ từ Constantinople qua Edirne (hiện là Thổ Nhĩ Kỳ) để vào miền Đông Nam Bungari; vì các bến cảng thông dụng ven Biển Đen hẳn đã đưa họ đi rất xa về hướng Bắc chứ không qua Haskovo.
Sự xuất hiện của các điểm hành hương truyền thống trong “Biên niên ký” của Zacharias đặt ra câu hỏi liệu chuyện kể của Stefan có phải là một tài liệu về hành hương hay không. Tuy nhiên, hai sự kiện được coi là lý do cho các cuộc lãng du của Stefan - rời khỏi thành phố suy tàn Constantinople để sống ly hương từ sau năm 1453, vận chuyển các thánh tích và tìm kiếm một “vật báu” ở Bungari sau năm 1476 - đã khiến ký sự này trở thành biến thể của một biên niên ký hành hương kinh điển. Hơn nữa, chỉ riêng việc Stefan rời khỏi Constantinople lúc còn là một tu sĩ trẻ cũng có vẻ như bị thúc đẩy chủ yếu bởi ước vọng tìm kiếm những địa điểm thiêng liêng ở nước ngoài.
Đề tài thứ hai mà cuốn “Biên niên ký” soi rọi đến là những ngày cuối cùng của ông hoàng Vlad III xứ Wallachia (1428?-1476), thường được biết đến dưới tên Vlad Ţepeş Kẻ Xiên Người, hoặc Dracula. Dù vài sử gia cùng thời với Dracula đã thuật lại những chiến dịch của ông ta chống lại người Thổ cũng như những cuộc đấu tranh giành giật và duy trì ngai vàng xứ Wallachia, nhưng không mấy ai đề cập chi tiết đến cái chết và việc chôn cất ông hoàng này. Vlad III đã có những đóng góp hào phóng cho tu viện ở Snagov xây dựng lại nhà thờ, như Stefan khẳng định trong chuyện kể của mình. Có khả năng Dracula cũng yêu cầu được chôn cất ở đó, theo truyền thống của các nhà sáng lập hoặc bảo trợ chính của các tổ chức trong khắp thế giới Chính Thống giáo.
Stefan khẳng định trong cuốn “Biên niên ký” rằng Vlad đã đến thăm tu viện này vào năm 1476, năm cuối đời ông ta, có lẽ một vài tháng trước khi chết. Năm 1476, ngai vàng của Vlad III phải chịu sức ép khủng khiếp từ Quốc vương Ottoman Mehmed II, người không ngừng giao tranh với Vlad từ năm 1460. Đồng thời, việc Vlad nắm giữ ngai vàng xứ Wallachia cũng bị đe dọa bởi một nhóm địa chủ sẵn sàng về phe với Mehmed nếu vị Quốc vương này tiến hành một cuộc xâm lấn mới vào Wallachia.
Nếu “Biên niên ký” của Zacharias chính xác thì cuộc viếng thăm Snagov của Vlad III đã không được sử sách chép lại và chắc hẳn cực kỳ nguy hiểm đối với bản thân ông ta. “Biên niên ký” ghi lại là Vlad đã mang kho báu đến tu viện; rằng việc ông ta hành động liều lĩnh như vậy chứng tỏ tầm quan trọng của mối ràng buộc giữa ông ta và Snagov. Hẳn ông ta phải biết rõ mạng sống của mình thường xuyên bị đe dọa, từ đế chế Ottoman và cả từ đối thủ chính ở Wallachia thời kỳ đó, Basarab Laiota, người chiếm giữ ngai vàng Wallachia ngay sau cái chết của Vlad. Bởi vì viếng thăm Snagov chẳng đem lại mấy lợi ích chính trị, nên có vẻ hợp lý khi suy ra rằng Snagov rất quan trọng đối với Vlad III vì những lý do tâm linh hoặc lý do cá nhân, có thể ông ta định biến chốn này thành nơi yên nghỉ sau cùng của mình. Dù thế nào thì “Biên niên ký” của Zacharias cũng khẳng định về cuối đời ông ta đặc biệt lưu tâm đến Snagov.
Sau đó cha tu viện trưởng đến, qua ánh sáng ngọn đuốc trong tay ông, tôi thấy ông mặt mũi trắng bệch, tỏ vẻ kinh sợ khi nghe những chuyện các tu sĩ thuật lại và liên tục làm dấu thánh. Ông nhắc nhở những người hiện diện rằng linh hồn của con người quý tộc này đang nằm trong tay chúng tôi và do vậy chúng tôi phải hành động một cách thích đáng. Ông dẫn chúng tôi vào trong nhà thờ, thắp lại nến, và chúng tôi nhìn thấy cái xác vẫn nằm yên như cũ trong quan tài. Cha tu viện trưởng ra lệnh lục soát khắp nhà thờ, nhưng chẳng tìm thấy con thú hoặc ma quỷ nào trong mọi ngóc ngách. Rồi ông ra lệnh cho chúng tôi bình tĩnh trở lại, ai trở về phòng nấy, và khi giờ lễ nhất đến, mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường và êm ả.
Nhưng sáng hôm sau ông triệu tập tám tu sĩ đến, tôi rất vinh dự được nằm trong số đó, và nói rằng chúng tôi chỉ phải giả vờ chôn xác của ông hoàng trong nhà thờ rồi chuyển nó ra khỏi đây ngay lập tức. Ông nói sẽ chỉ tiết lộ bí mật với một người trong số chúng tôi lý do và địa điểm chúng tôi phải chuyển cái xác đến, càng ít người biết điều đó thì càng an toàn hơn cho tất cả những người còn lại, và ông đã hành động y như vậy, chọn một tu sĩ đã ở bên ông nhiều năm và bảo những người còn lại (trong chúng tôi) chỉ cần ngoan ngoãn đi theo, đừng thắc mắc gì cả.
Như vậy, tôi, người đã nghĩ rằng sẽ không bao giờ phải sống cuộc đời lãng du nữa, lại một lần nữa trở thành lữ khách, phải băng qua một quãng đường xa diệu vợi cùng các đạo hữu trở về thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, nơi đã trở thành trung tâm vương quốc của những kẻ ngoại đạo, và tôi nhận ra đã có quá nhiều đổi thay ở chốn đó. Chúng tôi không thể vào đại giáo đường Hagia Sophia vì nơi đó giờ được xem như một nhà thờ Hồi giáo. Nhiều nhà thờ đã bị phá hủy hoặc để mặc cho hư hại, đổ nát, và nhiều nhà thờ khác, thậm chí cả nhà thờ Đức Mẹ Panachrantos cũng biến thành nơi hành lễ của người Thổ. Và đến đó tôi mới biết chúng tôi đang tìm kiếm một vật báu có thể nhanh chóng cứu rỗi linh hồn ông hoàng này, vật báu ấy đã được hai tu sĩ mộ đạo và gan dạ mạo hiểm lấy từ tu viện Thánh Saviour rồi bí mật mang ra khỏi thành phố trước đó. Nhưng một số vệ binh của Quốc vương Hồi giáo đã có dấu hiệu nghi ngờ, do vậy chúng tôi lại lâm vào vòng nguy hiểm và buộc phải lên đường một lần nữa để tìm kiếm vật báu đó, lần này là đi vào vương quốc lâu đời của người Bungari.
Khi chúng tôi đi qua đất nước ấy, có vẻ như một số người Bungari đã biết về sứ mệnh này, vì ngày càng có nhiều người xuất hiện dọc bên đường, im lặng cúi đầu cung kính chào đoàn người chúng tôi, một số người còn đi theo nhiều dặm đường, đưa tay sờ hoặc hôn lên thành xe ngựa. Một chuyện rất khủng khiếp đã xảy ra trong chuyến đi này. Lúc đi ngang qua Haskovo, một số vệ binh của thành phố đã phi ngựa vượt xe chúng tôi, bắt chúng tôi dừng lại bằng vũ lực và bằng những lời thô lỗ cục cằn. Chúng lục soát xe ngựa, tuyên bố sẽ tìm ra thứ chúng tôi mang theo, dù đó là gì đi nữa, khi thấy hai cái bọc, chúng vồ lấy và mở ra. Khi thấy đó chỉ là lương thực, bọn vô đạo giận dữ vứt hết xuống đường rồi bắt giữ hai người của chúng tôi. Họ quả là những tu sĩ đức hạnh khi quả quyết rằng mình không biết gì, vì thế càng làm cho những kẻ xấu xa kia thêm tức giận, chúng chặt tay chân họ, xát muối vào các vết thương trước khi họ chết. Bọn chúng để những người còn lại chúng tôi được sống, nhưng hành hạ, xua đuổi bằng những lời nguyền rủa và đòn roi. Sau đó, chúng tôi tìm lại được thi thể và tứ chi của các đạo hữu thân yêu, ráp chúng lại rồi chôn cất theo nghi thức Thiên Chúa giáo tại tu viện Bachkovo, các tu sĩ ở đó đã cầu nguyện cho linh hồn mộ đạo của họ nhiều ngày đêm liền.
Sau biến cố ấy, dù rất buồn rầu và hoảng sợ, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc hành trình đến tu viện Sveti Georgi, cũng không còn bao xa và không gặp biến cố nào nữa. Các tu sĩ ở đó, dù đã già nua và chỉ còn thưa thớt vài người, nhưng vẫn nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi và cho biết quả thực vật báu mà chúng tôi tìm kiếm đã được hai khách hành hương mang đến chỗ họ vài tháng trước đây, và tất cả đều tốt. Sau khi trải qua bao nhiêu hiểm nguy như vậy chúng tôi chưa thể nghĩ đến việc trở về Dacia ngay, vì vậy chúng tôi đã ở lại tu viện đó. Di hài mà chúng tôi chuyển đến đã được bí mật cất giữ vào thánh đường Sveti Georgi, và tiếng đồn về nó trong các tín đồ Thiên Chúa giáo đã khiến nhiều người đến đó tế lễ, và họ cũng giữ bí mật. Chúng tôi sống yên ổn tại nơi này một thời gian và góp công lớn xây dựng tu viện to đẹp hơn. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau một chứng bệnh dịch bùng phát trong các làng mạc gần chúng tôi, dù thoạt tiên không ảnh hưởng đến tu viện. Tôi nhận ra đó không phải là một bệnh dịch thông thường, mà là...
[Đến đây bản thảo bị cắt hoặc xé mất.]
Chú thích:
1. Cuốn sách chỉ dẫn nghi thức tế lễ hàng ngày trong các nhà thời Chính Thống giáo.
2. Tiếng Bungari trong nguyên bản. nghĩa là "Một góc nhìn lịch sử về vùng Balkan".
3. Vùng biển Bắc biển Adriatic, phân cách bán đảo Ý với bán đảo Balkan, một phần của địa trung hải.