Truy Tìm Dracula
Chương 61 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
“Nếu ấn tượng đầu tiên khi nhìn ngôi nhà của Stoichev đã bất chợt làm dâng lên trong cha nỗi thất vọng, thì ấn tượng ban đầu khi thấy tu viện Rila lại làm cha choáng ngợp nỗi kinh sợ. Tu viện nằm trong một thung lũng sâu hút - vào thời điểm đó gần như chiếm cả thung lũng - còn trên các bức tường và mái vòm là những ngọn núi trong dãy Rila, sừng sững vút lên, dựng đứng và phủ dày những cánh rừng vân sam. Ranov dừng xe trong bóng râm phía ngoài cổng chính, và chúng ta đi vào cùng vài nhóm khách du lịch khác. Đó là một ngày hanh nóng; mùa hè vùng Balkan dường như đang đến gần, bụi bặm từ nền đất cuộn lên quanh mắt cá chân chúng ta. Cánh cửa gỗ lớn của cổng chính để mở, chúng ta bước vào và nhìn thấy một cảnh tượng mà cha chưa bao giờ quên được. Chung quanh chúng ta lù lù hiện ra những bức tường của pháo đài tu viện, với những sọc đen, đỏ trên nền thạch cao trắng và những tầng hành lang gỗ dài. Chiếm một phần ba khu vực bên trong là một nhà thờ thanh nhã, cổng vòm đầy những bức bích họa, các mái vòm màu xanh lục nhạt sáng bừng lên dưới nắng ban trưa. Bên cạnh nhà thờ là một ngọn tháp đá xám vuông vắn, đồ sộ, rõ ràng cổ xưa hơn mọi thứ khác trong tầm mắt. Stoichev cho chúng ta biết đó là tháp Hrelyo, do một nhà quý tộc thời Trung cổ xây dựng làm nơi ẩn náu khỏi các đối thủ chính trị. Đó là phần còn lại duy nhất của tu viện nguyên thủy vốn đã bị quân Thổ phóng hỏa tiêu hủy, công trình tráng lệ với những sọc đen đỏ hiện nay mãi tới nhiều thế kỷ sau mới được xây dựng. Khi chúng ta đang đứng đó, chuông nhà thờ bỗng ngân vang, khiến một bầy chim sợ hãi bay lên. Những con chim giật mình vút lên cao, cha dõi theo chúng và lại nhìn thấy những đỉnh núi cao đến khó tưởng tượng nổi phía bên trên - ít nhất cũng phải một ngày leo núi. Cha nín thở; liệu thầy Rossi có đang ở đâu đó trong chốn cổ xưa này?
“Đứng sát bên với một chiếc khăn nhỏ buộc trên tóc, Helen quàng tay vào tay cha, và cha chợt nhớ lại khoảnh khắc ở thánh đường Hagia Sophia, khi cô chợt nắm chặt tay cha, buổi chiều đó ở Istanbul có vẻ như đã trôi qua lâu lắm rồi dù thực sự chỉ mới vài ngày trước đây. Đế chế Ottoman đã chinh phục vùng đất này rất lâu trước khi chiếm Constantinople; đúng ra, chúng ta nên bắt đầu cuộc hành trình tìm ở đây chứ không phải ở Hagia Sophia. Mặt khác, ngay cả trước khi vùng đất này bị chinh phục, những học thuyết của người Byzantine cũng như nghệ thuật và kiến trúc tao nhã của họ đã được truyền bá từ Constantinople sang để làm phong phú thêm nền văn hóa Bungari. Ngày nay Hagia Sophia là một viện bảo tàng giữa các nhà thờ Hồi giáo, trong khi cái thung lũng hẻo lánh này lại đầy ắp những đặc trưng của nền văn hóa Byzantine.
“Đứng bên cạnh chúng ta, Stoichev rõ ràng đang khoái trá tận hưởng sự ngạc nhiên của Helen và cha. Dưới chiếc mũ rộng vành, Irina ôm cứng tay ông cậu mình. Chỉ mình Ranov đứng lẻ loi, nhìn quang cảnh đẹp tuyệt vời này bằng ánh mắt cau có, gã nghi ngờ quay đầu lại khi một nhóm tu sĩ đội mũ trùm đen đi ngang qua chúng ta để vào nhà thờ. Chúng ta phải vất vả lắm mới thuyết phục được gã đồng ý đón Stoichev và Irina đi cùng xe; gã nói muốn dành cho Stoichev cái vinh dự được chỉ dẫn chúng ta ở Rila, nhưng Stoichev không có lý gì mà không thể sử dụng xe buýt như những người dân Bungari khác. Cha đã cố kiềm chế không huỵch toẹt ra là chính gã, Ranov, cũng đâu có vẻ mặn mà lắm nếu bản thân phải sử dụng xe buýt. Cuối cùng chúng ta cũng thuyết phục được gã, dù điều này cũng không thể ngăn gã càu nhàu về Stoichev suốt trên đường từ Sofia đến nhà vị giáo sư già. Nào là Stoichev đã sử dụng danh tiếng của mình để rao truyền sự mê tín dị đoan và những ý tưởng đi ngược lại với tinh thần yêu nước; tất cả mọi người đều biết ông ta đã không chịu từ bỏ lòng trung thành mù quáng, thiếu cơ sở khoa học đối với giáo hội Chính Thống giáo; ông ta còn có một người con trai đang học ở Tây Đức cũng phản động không kém gì cha mình. Nhưng chúng ta đã thắng cuộc, Stoichev được đi cùng xe với chúng ta, và trong lúc dừng lại ăn trưa tại một quán rượu miền núi Irina thì thầm với vẻ biết ơn rằng cô sẽ ngăn không cho ông cậu đi nếu họ phải đi bằng xe buýt; ông sẽ không chịu nổi một chuyến đi khó nhọc như vậy trong thời tiết nóng bức này.
“ ‘Đây là cánh bên nơi các tu sĩ ở,’ Stoichev lên tiếng. ‘Và ở đằng kia, dọc theo cánh đó, là khu nhà trọ nơi chúng ta sẽ qua đêm. Mặc dù ban ngày tấp nập du khách, nhưng các bạn sẽ cảm nhận được sự tĩnh mịch vô cùng của nơi này vào ban đêm. Đây là một trong những kho báu tuyệt vời nhất của đất nước chúng tôi, có rất nhiều người đến đây tham quan, đặc biệt là vào mùa hè. Nhưng đến đêm thì cảnh vật lại trở nên tĩnh lặng. Nào,’ ông tiếp tục, ‘chúng ta sẽ vào trong để gặp cha tu viện trưởng. Tôi đã gọi cho ông ấy hôm qua, có lẽ ông ấy đang mong chúng ta.’ Stoichev dẫn đường với vẻ hăng hái bất ngờ, hăm hở nhìn quanh, tựa như nơi này đã thổi vào ông một luồng sinh khí mới.
“Chúng ta đến dãy phòng tiếp khách của cha tu viện trưởng ở tầng trệt bên một cánh tu viện. Một tu sĩ mặc áo chùng đen có bộ râu dài màu nâu mở cửa cho chúng ta, Stoichev bỏ mũ ra và bước vào trước tiên. Cha tu viện trưởng đứng lên khỏi chiếc ghế băng dài đặt sát tường và bước ra đón chúng ta. Ông và Stoichev chào hỏi nhau rất thân mật, Stoichev hôn tay ông, còn ông thì làm dấu ban phước lành cho vị giáo sư già. Cha tu viện trưởng khoảng sáu mươi, gầy gò nhưng dáng người vẫn thẳng, râu đã chớm bạc và mắt xanh trầm tĩnh - cha khá ngạc nhiên khi nhận ra có những người Bungari mắt xanh như vậy. Bằng kiểu cách rất hiện đại, ông bắt tay chúng ta và cả Ranov, gã chào lại với vẻ khinh khỉnh ra mặt. Sau đó, ông ra hiệu mời tất cả chúng ta ngồi xuống, một tu sĩ bưng vào một khay đầy ly - nhưng ở đây thì đó không phải là những ly đầy rakiya mà là nước mát, cùng với những đĩa nhỏ bột tinh chất hoa hồng mà chúng ta đã từng gặp ở Istanbul. Cha để ý thấy Ranov không thèm đụng đến ly nước của mình, tựa như gã nghi ngờ có thuốc độc.
“Cha tu viện trưởng rõ ràng rất vui khi gặp Stoichev, cha nghĩ cuộc thăm viếng này hẳn khiến cho cả hai vô cùng mãn nguyện. Thông qua Stoichev, ông hỏi chúng ta ở vùng nào tại Mỹ, ông có thể làm gì giúp chúng ta, chúng ta có thể ở lại bao lâu. Stoichev nói chuyện với ông một lúc lâu, đồng thời ân cần dịch lại để chúng ta có thể trả lời những câu hỏi của tu viện trưởng. Cha tu viện trưởng tuyên bố chúng ta có thể sử dụng thư viện bao lâu tùy thích; chúng ta có thể ngủ ở khu nhà trọ; chúng ta nên tham gia các buổi lễ trong nhà thờ; chúng ta có thể đi bất cứ đâu ngoại trừ khu vực của các tu sĩ - ông nói câu này với một cái gật đầu tế nhị hướng về Helen và Irina - và sẽ không có chuyện bạn bè giáo sư Stoichev phải trả tiền trọ. Chúng ta nồng nhiệt cảm ơn ông, rồi Stoichev đứng dậy. ‘Nào,’ ông nói, ‘vì đã được cha tu viện trưởng cho phép, chúng ta sẽ đến thư viện ngay.’ Chưa dứt lời ông đã bước ra cửa một cách thận trọng, không quên hôn tay và cúi chào cha tu viện trưởng.
“ ‘Cậu tôi rất xúc động,’ Irina thì thầm với chúng ta. ‘Ông nói lá thư của các bạn là một phát hiện lớn đối với lịch sử Bungari.’ Cha tự hỏi cô có biết nghiên cứu này khó khăn nhiều như thế nào, những thế lực vô hình nào chặn ngang đường chúng ta, nhưng cha không thể đoán được gì qua nét mặt Irina. Cô gái giúp ông cậu của mình bước qua cửa, và chúng ta theo ông đi dọc những hành lang gỗ mênh mông ở khu sân trong, Ranov theo đuôi chúng ta, điếu thuốc kẹp trong tay.
“Thư viện là một gian phòng dài ở tầng trệt, gần như đối diện với các căn phòng của cha tu viện trưởng. Một tu sĩ râu đen đón ở cửa và dẫn chúng ta vào; ông ta cao, nét mặt u ám, và cha thấy dường như ông ta chăm chú nhìn Stoichev một lúc trước khi gật đầu chào chúng ta. ‘Đây là Sư huynh Rumen,’ Stoichev giới thiệu. ‘Hiện ông ấy là tu sĩ thủ thư. Ông ấy sẽ tìm cho chúng ta thứ chúng ta cần.’
“Một vài cuốn sách và bản thảo viết tay được đặt trong hộp kính, dán nhãn và trưng bày cho du khách; cha rất muốn dừng lại xem, nhưng chúng ta vẫn đi tiếp vào một khu ở sâu bên trong, lối vào khu này ở cuối phòng. Không khí mát lạnh kỳ lạ khi vào sâu trong tu viện, và những bóng đèn trần ít ỏi không đủ xua đi bóng tối thăm thẳm trong các ngóc ngách. Tại khu riêng biệt nội bộ này, tủ gỗ kệ gỗ chất đầy những hộp và khay sách. Trong góc là một ngai nhỏ đặt bức hình Đức Mẹ Đồng Trinh, Chúa Hài Đồng cùng các thiên thần cánh đỏ chầu hai bên, một ngọn đèn bằng vàng khảm ngọc quý đong đưa phía trước bức ảnh thánh. Những bức tường cổ kính trát vữa, quét vôi trắng, và một mùi quen thuộc tràn ngập xung quanh chúng ta: mùi của giấy da và lớp lông nhung đang dần phân hủy. Cha mừng là Ranov ít nhất cũng biết điều mà tắt điếu thuốc trước khi theo chúng ta bước vào kho báu này.
“Tiếng bước chân Stoichev gõ cồm cộp trên nền đá như muốn đánh thức những linh hồn đang còn lẩn quất đâu đây. ‘Ở đây,’ ông nói, ‘các bạn đang nhìn vào trái tim của dân tộc Bungari - đây là nơi hàng trăm năm qua các tu sĩ đã gìn giữ di sản của chúng tôi, thường là trong bí mật. Nhiều thế hệ tu sĩ trung thành đã bỏ công sao chép các bản thảo này hoặc cất giấu chúng khi tu viện bị những kẻ vô đạo tấn công. Đây chỉ là một phần nhỏ trong di sản của dân tộc chúng tôi - dĩ nhiên phần lớn đã bị phá hủy. Nhưng chúng tôi vẫn rất tự hào về những gì còn lại ở đây.’
“ ‘Đúng rồi,’ cha thốt lên, giọng đầy phấn khích. ‘Nếu là một cuốn sách chứa đựng thông tin nào đó mà người Thổ muốn và các tu sĩ cần thì sao nhỉ?’ Ranov, ở bên kia bàn, đột nhiên nhìn cha chăm chú.
“Stoichev chậm rãi gật đầu, nhưng một lát sau cha nhớ ra cái gật đó có nghĩa là không đồng tình. ‘Sách vở thời kỳ đó thường không chứa các thông tin chính trị - chúng thường là các văn bản tôn giáo, được chép lại thành nhiều bản để sử dụng trong các tu viện hoặc cho các trường học và nhà thờ Hồi giáo. Khó có khả năng các tu sĩ phải thực hiện một cuộc hành trình nguy hiểm như vậy chỉ vì một bản cuốn kinh phúc âm. Họ đã có vô khối những cuốn sách như vậy tại Snagov.’
“ ‘Chờ đã.’ Mắt Helen mở lớn, đầy tư lự. ‘Hượm đã. Chắc hẳn phải là một vật liên quan đến các nhu cầu của tu viện Snagov, hoặc Giáo đoàn Rồng, hoặc có thể là lễ thức canh Vlad Dracula - mọi người nhớ chi tiết ở “Biên niên ký” chứ? Cha tu viện trưởng muốn an táng Dracula tại một nơi khác.’
“ ‘Đúng vậy,’ Stoichev trầm ngâm. ‘Ông ta muốn đưa thi hài Dracula đến Tsarigrad, thậm chí đánh liều cả tính mạng của các tu sĩ.’
“ ‘Phải,’ cha lên tiếng. Cha đang sắp nói một điều gì đó để loại bớt những nghi vấn không cần thiết thì đột nhiên Helen quay sang lắc lắc tay cha.
“ ‘Gì vậy em?’ cha hỏi, nhưng Helen đã kịp trấn tĩnh lại ngay.
“ ‘Không có gì,’ cô khẽ nói, tránh không nhìn cha và Ranov. Cha cầu Chúa cho gã đứng dậy ra ngoài hút thuốc hoặc chán ngấy cuộc trò chuyện của chúng ta để Helen có thể nói ra thoải mái. Stoichev liếc nhìn Helen bằng ánh mắt đầy thâm ý, và lát sau, bằng một giọng đều đều ông bắt đầu giải thích cách các bản thảo thời Trung cổ được làm ra và sao chép - thực ra đôi khi do các tu sĩ mù chữ tiến hành, tạo nên những lỗi vụn vặt lưu truyền hàng thế hệ - và cách những kiểu chữ viết tay khác nhau được các học giả hiện đại giải mã. Mặc dù vẫn rất chú tâm đến những gì ông nói nhưng cha vẫn không hiểu vì sao ông phải dài dòng như vậy. May mắn là cha im lặng suốt bài giảng lê thê của Stoichev, vì một lát sau Ranov thực sự bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài. Cuối cùng, gã đứng dậy bước ra khỏi thư viện, lôi trong túi áo khoác ra một gói thuốc. Ngay lúc gã biến đi, Helen lại chộp lấy cánh tay cha. Stoichev chăm chú nhìn cô.
“ ‘Anh Paul,’ Helen thốt lên, vẻ mặt kỳ lạ đến độ cha phải quàng tay ôm lấy vai cô, nghĩ rằng cô sắp ngất đi. ‘Cái đầu của hắn! Anh không nhận ra sao? Dracula quay trở lại Constantinople để lấy lại cái đầu của mình!’
“Stoichev húng hắng để báo hiệu, nhưng đã quá trễ. Ngay khoảnh khắc đó, cha liếc nhìn quanh và thấy khuôn mặt giơ xương của Sư huynh Rumen sau rìa một kệ sách. Ông ta đã âm thầm trở lại phòng, và mặc dù quay lưng lại chúng ta để cất một thứ gì đó, ông ta vẫn để tai lắng nghe. Một lát sau, ông ta lại yên lặng bỏ ra ngoài, chúng ta vẫn ngồi lặng thinh. Helen và cha liếc nhìn nhau vẻ bất lực, cha đứng dậy kiểm tra lại căn phòng. Người thủ thư đã đi, nhưng có lẽ chẳng mấy chốc một người nào khác - như Ranov chẳng hạn - sẽ được nghe kể về những lời Helen đã thốt lên. Và Ranov có thể sử dụng thông tin đó để làm gì nhỉ?”