Truy Tìm Dracula
Chương 67 :
Ngày đăng: 13:58 19/04/20
“Cha bực mình khi Ranov rất miễn cưỡng đưa chúng ta đến Rila, nhưng khi gã tỏ vẻ nhiệt tình đưa chúng ta đến Bachkovo thì cha còn thấy bực hơn. Trong suốt chuyến đi, gã chỉ trỏ đủ loại cảnh đẹp này nọ, nhiều thắng cảnh thật sự thú vị, bất chấp những lời bình luận lung tung của gã. Helen và cha cố không nhìn nhau, nhưng cha chắc chắn cô cũng chung một nỗi lo như cha. Giờ thì chúng ta lại có thêm József để mà lo lắng. Con đường từ Plovdiv hẹp hẳn lại, quanh co giữa một bên là một dòng suối lởm chởm đá còn bên kia là những vách đá dựng đứng. Chúng ta lại đang tiến dần vào vùng núi non - ở Bungari, người ta không thể nào xa cách những ngọn núi được. Cha nói với Helen nhận xét đó, cô đang nhìn đăm đăm ra ngoài cửa xe đối diện ở ghế sau, và cô gật đầu. ‘Balkan trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là núi.’ ”
“Tu viện không có đường vào rộng rãi - xe chúng ta tấp vào một bãi đất bụi mù, từ đó đi bộ một quãng ngắn đến cổng tu viện. Bachkovski manastir nằm giữa vùng đồi cao, cằn cỗi, một phần là rừng một phần là đá, gần một dòng sông nhỏ; quang cảnh khô cằn dù mới chỉ đầu hè, nên cha dễ dàng hình dung các tu sĩ ở đây quý trọng nguồn nước gần đó như thế nào. Tường ngoài xây bằng đá nâu xám cùng màu với những ngọn đồi xung quanh. Các mái vòm lợp ngói đỏ có rãnh giống căn nhà cũ kỹ của Stoichev và hàng trăm nhà ở và nhà thờ khác chúng ta nhìn thấy dọc đường. Cổng vào tu viện là một lối đi rộng dài có vòm mái, tối thui như một cái hang trong lòng đất. ‘Chúng ta cứ thế bước vào thôi à?’ cha hỏi Ranov.
“Gã lắc đầu, ý là đúng thế, vậy là chúng ta bước vào bóng tối mát lạnh của cái cổng tò vò kia. Phải mất một lúc dò dẫm bước đi chúng ta mới lọt vào khoảnh sân trong ngập nắng, và suốt những giây phút ở bên trong bức tường dài hun hút của tu viện, cha không nghe thấy gì khác ngoài tiếng bước chân của chính chúng ta.
“Có lẽ cha đã mong nhìn thấy một khoảng không gian rộng lớn như ở Rila; nhưng sự cách biệt và vẻ đẹp của sân chính tu viện Bachkovo đã làm cha bật lên một tiếng xuýt xoa, và Helen cũng trầm trồ gì đó. Nhà thờ của tu viện với những ngọn tháp góc cạnh màu đỏ theo phong cách Byzantine chiếm khá nhiều diện tích của sân trong. Ở đây không có những mái vòm bằng vàng, chỉ có vẻ thanh nhã cổ kính - những vật liệu đơn sơ nhất được sắp đặt thành những hình thể hài hòa, cân đối. Dây leo bò quanh các ngọn tháp; đám cây cối cũng áp sát vào nhà thờ; một cây bách đứng sừng sững như một tháp chuông. Ba tu sĩ mặc áo chùng và mũ trùm đen đứng trò chuyện bên ngoài nhà thờ. Một cơn gió nhẹ lướt qua làm lay động những cành lá của hàng cây đang đổ bóng râm rải rác trên khoảnh sân rực nắng. Cha ngạc nhiên khi thấy lũ gà chạy khắp nơi, cào bới mặt sân lát đá cũ kỹ, và một con mèo vằn đang đuổi theo cái gì đó ở khe nứt tường.
“Giống như ở Rila, phía trong tu viện là những hành lang dài có ban công, xây bằng gỗ và đá. Bức tường đá phía dưới vài hành lang, giống như cổng nhà thờ, phủ đầy những bức bích họa đã phai màu. Không còn ai hay cái gì trong tầm mắt ngoài ba vị tu sĩ, lũ gà và con mèo. Chỉ có chúng ta đơn độc ở đó, lẻ loi giữa một không gian đậm màu sắc Byzantine.
“Ranov bước đến bắt chuyện với các tu sĩ, Helen và cha nán lại phía sau một chút. Một lát sau gã quay trở lại. ‘Tu viện trưởng đi vắng, nhưng ông thủ thư ở đây và có thể giúp chúng ta.’ Cha không nói gì dù chẳng thích cái cách gã xưng chúng ta chút nào. ‘Các bạn có thể tham quan nhà thờ trong lúc tôi đi tìm ông ta.’
“ ‘Chúng tôi sẽ cùng đi với anh,’ Helen nói, giọng quả quyết, và cả ba người chúng ta đi theo một tu sĩ vào dãy hành lang. Người thủ thư đang làm việc trong một phòng ở tầng trệt; ông ta đứng dậy chào khi chúng ta bước vào. Căn phòng trống trải, không có gì ngoài một lò sưởi bằng sắt và tấm thảm màu sáng trên nền nhà. Cha thầm hỏi sách vở và các loại bản thảo để ở đâu. Ngoại trừ một vài cuốn sách trên cái bàn gỗ, cha chẳng nhìn thấy ở đây dấu hiệu gì của một thư viện.
“ ‘Đây là Sư huynh Ivan,’ Ranov giới thiệu. Ông thầy tu nghiêng người chào nhưng không đưa tay để bắt tay chúng ta; thực ra, hai bàn tay ông ta khoanh trước ngực và nằm khuất trong cánh tay áo dài thậm thượt. Cha chợt nhận ra ông ta không muốn chạm vào Helen. Chắc hẳn Helen cũng có ý nghĩ như vậy, vì cô lùi lại và hầu như đứng khuất sau lưng cha. Ranov trao đổi với ông ta vài lời. ‘Sư huynh Ivan mời các bạn ngồi.’ Chúng ta ngoan ngoãn ngồi xuống. Khuôn mặt dài, nghiêm nghị và rậm rịt râu của Ivan chăm chú quan sát chúng ta một lúc. ‘Các bạn có thể hỏi han ông ta,’ Ranov nói, giọng khuyến khích.
“Cha hắng giọng. Không còn cách nào khác; chúng ta sắp phải hỏi han này nọ trước mặt Ranov. Cha sẽ phải cố gắng nêu ra những câu hỏi có vẻ như chỉ liên quan đến học thuật. ‘Anh vui lòng hỏi hộ chúng tôi liệu ông ấy có biết gì về những người hành hương đến đây từ xứ Wallachia không?’
“Ranov dịch câu hỏi cho ông thầy tu, mặt ông ta sáng lên ngay lúc nghe cái từ Wallachia. ‘Ông ấy nói tu viện này đã có mối liên hệ mật thiết với xứ Wallachia vào cuối thế kỷ mười lăm.’
“Tim cha bắt đầu đập rộn lên, dù cha vẫn cố gắng ngồi yên. ‘Vậy à? Mối liên hệ gì vậy?’
“Ranov lặp lại câu hỏi với sự kiên nhẫn đáng ngạc nhiên, nhưng Sư huynh Ivan chỉ ngồi nhăn nhó rúm ró lại, lặng yên không nói gì. Một lúc sau, sự yên lặng làm cha nổi cáu. ‘Hỏi xem ông ta có biết gì về Vlad Dracula hay không!’ cha hét lên. ‘Vlad Ţepeş ấy! Có phải hắn được chôn cất ở vùng này không? Ông ta từng nghe nói đến cái tên đó chưa? Cái tên Dracula ấy?’ Helen dằn cánh tay cha lại, nhưng lúc đó cha đã mất tự chủ. Ông thủ thư nhìn cha chằm chằm, dù có vẻ như không cảm thấy kinh sợ gì, và nếu bận tâm để ý kỹ hơn thì hẳn cha sẽ thấy Ranov nhìn mình bằng một ánh mắt có thể gọi là thương hại.
“Nhưng tác động đối với Pondev thật kinh hoàng. Mặt ông ta bỗng tái nhợt, mắt trợn ngược giống như những viên bi xanh biếc. Sư huynh Ivan lao đến đỡ lấy Pondev trước khi ông lão sụm nhào khỏi ghế, rồi loay loay cùng Ranov đưa ông ta lên giường. Pondev trông như một đống thịt thảm hại, bàn chân trắng phù nề chòi ra khỏi bộ quần áo ngủ, đôi tay lòng thòng quanh cổ Ivan và Ranov. Khi đã đặt Pondev nằm yên vị, ông thủ thư lấy một bình nước và vẩy vài giọt lên mặt ông lão khốn khổ. Cha đứng lặng câm trong nỗi kinh hoàng, cha đâu có ý gây ra nỗi đau đớn như vậy, và có lẽ giờ đây cha đã giết chết một trong những nguồn tin duy nhất còn lại của chúng ta. Sau khoảnh khắc tưởng chừng như bất tận đó, Sư huynh Angel bắt đầu cựa quậy và mở mắt, nhưng lúc này đó là đôi mắt hoang dại, đầy cảnh giác của một con thú bị săn đuổi, khiếp sợ đảo quanh phòng tựa như hoàn toàn không nhìn thấy chúng ta. Ông thủ thư vỗ nhẹ lên ngực Pondev và cố xoay trở để ông lão nằm ở tư thế thoải mái hơn, nhưng ông thầy tu già gạt tay Ivan ra, tiếp tục run rẩy. ‘Để ông ấy yên,’ Ranov nói, vẻ ủ rũ. ‘Ít ra thì ông ta sẽ không chết… vì chuyện này đâu.’ Theo chân ông thủ thư ra khỏi căn phòng, tất cả chúng ta đều im lặng và day dứt.
“ ‘Tôi xin lỗi,’ cha lên tiếng khi chúng ta đứng giữa sân, trong ánh nắng rực rỡ làm yên lòng trở lại.
“Helen quay qua Ranov. ‘Anh làm ơn hỏi ông thủ thư xem ông ta có biết gì thêm về bài hát đó, hoặc nó xuất phát từ thung lũng nào hay không?’
“Ranov và Ivan lại trao đổi với nhau, ông thủ thư liếc nhìn chúng ta. ‘Ông ta nói bài hát đó xuất phát từ Krasna Polyana, thung lũng nằm ở sườn bên kia dãy núi này, về hướng Đông Bắc. Các bạn có thể đi cùng với ông ấy hai ngày nữa vào dịp lễ thánh, nếu các bạn muốn ở lại đây. Bà ca sĩ già kia có thể biết gì đó về bài hát - ít nhất bà ta cũng có thể cho các bạn biết bà ta đã học được nó ở đâu.’
“ ‘Em nghĩ liệu việc đó có ích lợi gì không?’ cha thì thầm hỏi Helen.
“Cô nhìn cha bằng ánh mắt buồn bã. ‘Em cũng chẳng biết, nhưng đó là tất cả những gì chúng ta có. Chúng ta nên bám theo bài hát đó, bởi nó đề cập đến một con rồng. Trong thời gian chờ đợi, chúng ta có thể thăm thú Bachkovo kỹ lưỡng hơn, và có lẽ sẽ sử dụng thư viện nếu ông thủ thư sẵn sàng giúp chúng ta.’
“Cha mệt mỏi ngồi xuống một chiếc ghế đá dài bên rìa dãy hành lang. ‘Đành vậy thôi,’ cha nói.”
Chú thích:
1. Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "Sveti Georgi ở đâu?"