Truy Tìm Dracula
Chương 73 :
Ngày đăng: 13:58 19/04/20
Tháng Năm 1954
Tôi không biết mình viết những dòng chữ này cho ai, và niềm hy vọng có ai đó sẽ tìm thấy chúng cũng rất mong manh, nhưng tôi cảm thấy sẽ là có tội nếu không cố ghi lại những hiểu biết của mình trong khi còn có thể, và chỉ Thượng đế mới biết tôi còn bao nhiêu thời gian nữa.
Tôi bị lôi ra khỏi văn phòng trường đại học đã nhiều ngày nay - tôi không chắc là bao nhiêu ngày, nhưng đoán chừng bây giờ vẫn đang còn là tháng Năm. Đêm hôm đó, tôi tạm biệt người học trò yêu và cũng là một người bạn, cậu ta vừa đưa tôi xem một bản sao khác của cuốn sách ma quái mà nhiều năm qua tôi đã cố tình quên đi. Tôi nhìn cậu đi khỏi, mang theo tất cả thông tin mà tôi có thể cung cấp. Sau đó, tôi đóng cửa phòng làm việc, ngồi lặng đi trong nỗi tiếc nuối sâu xa cũng như sự sợ hãi tột cùng. Tôi biết mình đã phạm lỗi. Tôi đã lén lút phục hồi lại cuộc nghiên cứu về lịch sử ma cà rồng và rõ ràng có ý định phát triển đến một mức độ cao hơn những kiến thức của mình về huyền thoại Dracula, thậm chí còn hy vọng rốt cuộc có thể làm sáng tỏ được bí mật về vị trí hầm mộ của hắn. Tôi đã để cho thời gian, suy luận logic, và tính kiêu ngạo ru mình vào niềm tin rằng sẽ không có hậu quả gì khi trở lại nghiên cứu. Tôi đã tự thừa nhận tội lỗi của mình ngay trong khoảnh khắc đơn độc đầu tiên đó.
Tôi đã dằn vặt kinh khủng khi trao cho Paul các ghi chép về công trình nghiên cứu và những lá thư viết về các trải nghiệm của bản thân, không phải vì muốn tiếp tục giữ chúng lại cho mình - tất cả tham vọng muốn tiếp tục cuộc nghiên cứu đã tan biến ngay từ lúc Paul đưa cho tôi xem cuốn sách của cậu. Đơn giản chỉ vì tôi vô cùng hối tiếc đã trao cái kiến thức kinh tởm này vào tay cậu, dù vẫn tin chắc là càng hiểu biết Paul sẽ càng có khả năng tự bảo vệ bản thân hữu hiệu hơn. Tôi chỉ còn cách hy vọng nếu bất kỳ sự trừng phạt nào xảy ra thì người gánh chịu sẽ là tôi chứ không phải Paul, một thanh niên còn đầy lạc quan yêu đời, bước chân còn nhẹ nhàng không vướng bận, và tài năng còn non nớt chưa kinh qua thử thách. Chắc Paul còn chưa qua tuổi hai mươi bảy; tôi thì đã mấy chục năm sống trong một thứ hạnh phúc vờ vịt, không xứng đáng. Đó là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Ý nghĩ tiếp theo thực tiễn hơn. Thậm chí dù có muốn, tôi cũng không có cách nào để tự bảo vệ bản thân ngay tức khắc được, ngoại trừ niềm tin dựa trên lý trí. Tôi giữ các ghi chép mà không có bất kỳ một phương tiện truyền thống nào để trừ tà, phòng ngừa ma quỷ - chẳng có thánh giá, chẳng có đạn bạc hoặc chùm tỏi. Tôi chưa bao giờ phải sử dụng đến những thứ đó, thậm chí ngay cả trong những lúc cao điểm của cuộc nghiên cứu, nhưng bây giờ tôi bắt đầu hối tiếc là đã khuyên Paul chỉ sử dụng những nguồn lực tinh thần của chính bản thân cậu.
Những ý nghĩ này lởn vởn một hai phút rồi biến mất, mà hóa ra tôi cũng chỉ còn một hai phút để suy nghĩ. Rồi, đột ngột đến cùng luồng gió lạnh căm và hôi thối, sự hiện diện rõ rệt của ai đó đổ ập lên tôi, tôi hầu như không còn nhìn thấy gì và toàn thân như bật ra khỏi ghế vì sợ hãi. Trong khoảnh khắc, tôi như bị phong kín, mù lòa, cảm thấy mình như đang trong cơn hấp hối, dù không biết là do đâu. Giữa khoảnh khắc mơ hồ đó tôi thấy như hiện ra những hình ảnh kỳ lạ nhất của tuổi trẻ và cái đẹp, không hẳn là nhìn thấy, đúng ra là cảm nhận thấy, cảm nhận chính bản thân mình khi còn trẻ trung và tràn đầy tình yêu với một điều gì đó, một ai đó. Có lẽ đó là cách mà con người từ giã cuộc sống này. Nếu vậy, khi thời điểm của tôi đến - và sẽ đến sớm thôi, dù dưới hình thức kinh khủng nào - tôi hy vọng hình ảnh này sẽ lại đến với tôi trong khoảnh khắc cuối cùng.
Sau đó tôi không còn nhớ gì nữa, sự vô thức kéo dài một thời gian mà đến nay tôi vẫn không thể đánh giá là bao lâu. Tôi từ từ tỉnh lại và sửng sốt khi nhận ra mình vẫn còn sống. Những giây phút đầu tiên, tôi chưa thể nghe hoặc nhìn thấy gì. Giống như vừa tỉnh dậy sau một ca phẫu thuật nghiêm trọng, vì tiếp ngay sau đó là cảm giác đau đớn, toàn bộ cơ thể yếu ớt và đau nhức kinh khủng, tựa như có lửa cháy trong đầu, trong cổ họng và bên chân phải. Không khí ẩm ướt và lạnh lẽo, và vật tôi đang nằm bên trên cũng lạnh, vậy nên khắp người tôi thấy ớn lạnh. Tiếp sau cảm giác đó là ánh sáng - một thứ ánh sáng lờ mờ nhưng cũng đủ để tôi tin là mình chưa bị mù và vẫn đang mở mắt. Ánh sáng và cảm giác đau đớn, hơn bất kỳ điều gì khác, cho thấy rằng tôi vẫn còn sống. Tôi bắt đầu nhớ lại những gì mà mới đầu tôi nghĩ vừa xảy ra tối hôm trước - Paul đến phòng làm việc của tôi với phát hiện sửng sốt của cậu. Rồi tôi thấy lòng chùng lại và chợt hiểu mình đã bị quỷ dữ giam cầm; đó là lý do vì sao thân xác tôi bị đối xử hung bạo như thế này và tại sao có vẻ như xung quanh tôi chỉ dậy lên toàn mùi quỷ dữ.
Tôi thận trọng cựa quậy chân tay, thu hết tàn lực để xoay và nhấc đầu lên. Ánh mắt tôi bị chặn lại ở một vách tường lờ mờ cách xa không đến một tấc, nhưng ánh sáng yếu ớt mà tôi cảm nhận lại đến từ phía trên bức tường đó. Tôi thở dài và nghe được tiếng thở của mình; chính điều này khiến tôi tin mình vẫn có thể nghe được, nhưng chỉ vì đang ở trong một nơi quá tĩnh lặng nên tôi đã có ảo giác là bị điếc. Tôi tập trung lắng nghe hơn bao giờ hết, nhưng vẫn chẳng nghe thấy gì, nên tôi thận trọng cố gượng ngồi dậy. Cử động đó làm tôi cảm nhận được sự yếu ớt cũng như cảm giác đau đớn khốn khổ khắp cả tứ chi, đầu nhức như búa bổ. Trong tư thế ngồi, xúc giác cũng trở lại, và tôi nhận ra mình đang nằm trên đá, vách thấp hai bên đã làm chỗ dựa giúp tôi nhỏm dậy. Có tiếng ong ong kinh khủng trong đầu tôi, và dường như tràn ngập không gian chung quanh tôi. Như tôi đã mô tả, đó là một không gian tối lờ mờ, tĩnh lặng và co lại thành những khoảng tối trong các góc. Tôi đưa tay sờ soạng xung quanh. Tôi đang ngồi trong một quan tài bằng đá, không có nắp.
Phát hiện này làm dấy lên trong tôi một cơn buồn nôn, nhưng cùng lúc đó tôi nhận ra mình vẫn mặc bộ quần áo đã mặc trong phòng làm việc, dù cà vạt không còn, áo sơ mi và áo khoác đã rách một bên tay. Tuy nhiên, việc tôi vẫn đang mặc quần áo của chính mình khiến tôi hơi yên tâm trở lại; đây không phải là cái chết, cũng không đơn thuần là sự điên rồ mất trí, và tôi cũng không tỉnh dậy ở một thời đại khác, trừ phi tôi mang theo cả quần áo của mình đến đó. Tôi sờ soạng quần áo và tìm thấy chiếc ví trong túi quần trước. Thật xúc động khi sờ thấy món đồ quen thuộc này dưới tay mình. Nhưng rất tiếc là cây viết loại tốt trong túi áo khoác và cả cái đồng hồ đeo tay đều không còn nữa.
Sau đó, tôi đưa tay sờ lên mặt lên cổ. Có vẻ gương mặt tôi không có gì thay đổi, ngoại trừ một vết bầm còn mới trên trán, nhưng ở cổ tôi sờ thấy một vết thương gớm ghiếc, bầy nhầy. Khi tôi cử động đầu quá mạnh hoặc nuốt nước miếng, vết thương lại phát ra âm thanh nghe như tiếng mút bú, khiến tôi thất kinh. Khu vực vết thương sưng phồng lên và nhức nhối khi tôi sờ vào. Tôi cảm thấy mình lại có thể ngất đi vì kinh hoàng và thất vọng, nhưng rồi tôi nhớ ra là mình đã có đủ sức lực để tự ngồi dậy. Có thể tôi không mất quá nhiều máu như đã lo sợ lúc đầu, và có lẽ điều đó nghĩa là tôi mới chỉ bị cắn một lần. Tôi vẫn cảm nhận mình là mình, không phải là một ác quỷ; tôi không thấy thèm khát máu, tâm hồn vẫn không độc ác đồi bại. Rồi một cảm giác đau khổ cùng cực trào lên trong tôi. Liệu có ý nghĩa gì khi tôi chưa cảm thấy thèm khát máu? Dù tôi đang ở bất cứ nơi đâu, chắc chắn tôi sẽ bị nhiễm hoàn toàn, chỉ còn là vấn đề thời gian. Dĩ nhiên, trừ phi tôi trốn thoát được.
Tôi chậm chạp quay đầu nhìn xung quanh, cố nhìn rõ hơn, và rồi nhận ra nguồn ánh sáng. Đó là một nguồn sáng mờ đỏ tít xa trong khoảng không gian tối kịt - tôi không thể nói là xa bao nhiêu - và lù lù giữa tôi và nguồn sáng đó là những hình thù nặng nề tối đen. Tôi đưa tay sờ xuống mặt ngoài căn nhà bằng đá của mình. Cái quan tài đá này có vẻ như ở sát mặt đất, hoặc là một nền đá; tôi sờ soạng chung quanh cho đến lúc quyết định là có thể leo ra ngoài cái khoảng không mờ mờ tối đó mà không sợ bị ngã xuống từ trên cao. Tôi phải bước một bước dài để xuống nền nhà, và đôi chân tôi run rẩy dữ dội đến độ tôi phải quỳ sụm xuống ngay khi vừa ra khỏi cỗ quan tài. Bây giờ tôi đã có thể nhìn thấy rõ hơn một chút. Tôi tiến về nguồn sáng đỏ mờ mờ kia, hai tay đưa về phía trước, và trong lúc quờ quạng tôi đã đâm sầm vào một vật giống như một cỗ quan tài đá trống rỗng khác, và một món đồ gỗ. Khi va vào mặt gỗ tôi nghe có một thứ gì đó mềm mềm rơi xuống, nhưng không thể nhận ra đó là cái gì.
Quả thực kinh khủng khi mò mẫm trong cái bóng tối lờ mờ này, tôi luôn chực chờ giây phút bị Cái Vật đã mang tôi đến đây vồ lấy. Tôi lại băn khoăn tự hỏi phải chăng mình thực sự chưa chết - phải chăng đây là một dạng kinh hoàng của cái chết mà tôi vừa nhầm lẫn cho là sự tiếp nối của cuộc sống. Nhưng chẳng có gì vồ chụp lấy tôi cả, cảm giác đau đớn cũng đủ thuyết phục tôi tin đây là thực tại, và càng lúc tôi càng đến gần hơn với nguồn sáng đang lung linh nhảy múa cuối gian phòng dài lê thê này. Trước nguồn sáng đó, tôi có thể nhận ra lù lù một hình thù to tướng bất động đen thui. Khi chỉ còn cách vài mét, tôi nhận ra ngọn lửa trên nền lò sưởi, đang leo lắt cháy đỏ. Ngọn lửa nằm trong một lò sưởi vòm đá, đủ sáng để soi rõ những món đồ gỗ đồ sộ và cũ kỹ - một chiếc bàn to tướng bừa bãi giấy tờ, một cái tủ chạm khắc, một hai cái ghế cao đặt trong góc. Lưng một trong hai chiếc ghế xoay về hướng tôi, đối mặt với ngọn lửa, một người đang ngồi gần như bất động trên đó - tôi chỉ nhìn thấy một hình thù đen thui phía trên lưng ghế. Lúc này, tôi ước gì mình đã dò dẫm theo hướng ngược lại, tránh xa ánh lửa, hướng về một lối thoát khả dĩ nào đó, nhưng ánh mắt tôi bị cuốn hút dữ dội về phía cái hình thù đen thui kia và chiếc ghế vương giả bên dưới, cũng như màu đỏ mềm mại của ngọn lửa. Một mặt, tôi phải thu hết nghị lực để bước về phía đó, mặt khác, dù cố gắng tôi cũng không thể quay đi.
Tôi chậm rãi lê vào vùng sáng của ngọn lửa bằng đôi chân thâm tím, khi tôi vòng đến chiếc ghế bành kia, một hình thù từ từ đứng dậy, quay về phía tôi. Bởi lúc đó hắn quay lưng về phía ngọn lửa và cũng vì ánh sáng quá yếu ớt nên tôi không thể nhìn thấy gương mặt hắn, mặc dù thoạt tiên tôi nghĩ mình đã thoáng thấy một gò má trắng bợt, xương xẩu và ánh mắt sáng lấp lánh. Tóc hắn đen, quăn dài, phủ xuống quanh bờ vai đang khoác áo choàng ngắn. Có gì đó trong cử động của hắn rất khác, khác hẳn với cử động của một con người còn sống, nhưng tôi không thể xác quyết nó nhanh hơn hay chậm hơn. Hắn chỉ cao hơn tôi một chút, nhưng tôi có thể nhìn thấy bề ngang của đôi vai rộng trên nền ánh lửa và có cảm giác như hắn rất cao, rất vạm vỡ. Đoạn hắn cúi xuống ngọn lửa, với tay lấy một vật gì đó. Tôi tự hỏi phải chăng hắn sắp giết mình, và cố tỏ ra bình thản, hy vọng sẽ chết như một người có phẩm giá. Nhưng hắn chỉ châm một cây nến dài, và dùng nó để thắp các ngọn nến khác trong một giá đèn gần chiếc ghế hắn ngồi, rồi quay lại đối mặt với tôi.
Lúc này, tôi đã có thể nhìn hắn rõ hơn dù gương mặt hắn vẫn còn nằm trong bóng tối. Hắn đội mũ màu vàng kim và xanh lá với một cây trâm ngọc nặng nề ở phía trước, mặc áo nhung vàng có thắt lưng, cổ áo màu xanh và viền đăng ten cao đến tận chiếc cằm rộng. Món trang sức trên mũ và những sợi chỉ vàng ở cổ áo hắn lấp lánh trong ánh lửa. Một chiếc áo choàng lông thú màu trắng khoác trên vai, được cài lại bằng một huy hiệu hình rồng bằng bạc. Cách ăn mặc của hắn quả thực lạ thường; tôi thấy sợ kiểu ăn mặc đó gần như chẳng khác gì nỗi kinh sợ đối với sự hiện diện ma quái kỳ dị của hắn. Đó là quần áo thực sự, mới mẻ và sống động, không phải là loại trang phục cũ kỹ trưng bày trong một viện bảo tàng. Hắn mặc thứ trang phục đó lên người với dáng vẻ cực kỳ thanh lịch và giàu có, đứng yên lặng trước mặt tôi, chiếc áo choàng phủ xuống cuốn quanh hắn như một ngọn lốc tuyết. Ánh nến soi rọi một bàn tay hắn với những ngón tay dùi đục và đầy sẹo, đang đặt lên chuôi dao găm, xa hơn phía dưới là đôi chân cứng cáp đi tất dài màu xanh lá và giày ống. Hắn nhúc nhích, xoay người về phía ánh sáng, nhưng vẫn yên lặng. Giờ thì tôi có thể nhìn mặt hắn rõ hơn, vẻ tàn độc của gương mặt đó làm tôi lùi lại - hai con mắt đen to dưới hàng lông mày rậm rịt, mũi thẳng dài, lưỡng quyền rộng và xương. Miệng hắn, bây giờ tôi cũng nhìn thấy rõ hơn, mím lại thành một nụ cười khắc nghiệt, môi đỏ sậm cong lên dưới bộ ria mép đen, cứng. Tôi nhìn thấy ở một khóe môi hắn một vết máu khô - ôi, lạy Chúa, tôi giật mình chùn người lại vì ghê tởm. Nhìn thấy vết máu đó cũng đã đủ kinh hoàng rồi, nhưng nhận thức ngay sau đó rằng có thể đó là máu của tôi, máu của chính tôi, đã làm tôi choáng váng.
Hắn vươn thẳng người, thậm chí còn kiêu hãnh hơn, và qua cái bóng tối lờ mờ ngăn cách hai người, hắn nhìn thẳng vào mặt tôi. “Ta là Dracula,” hắn nói. Những tiếng ấy phát ra lạnh lùng và rõ ràng. Tôi cảm giác như đó là một thứ ngôn ngữ mình chưa hề biết, dù tôi hoàn toàn hiểu. Tôi không thể thốt nên lời, chỉ đứng nhìn hắn trân trân, toàn thân như rơi vào một cơn tê liệt khủng khiếp. Thân xác hắn chỉ cách tôi khoảng hơn ba mét, dù là một thân xác còn sống hay đã chết thì điều không thể chối cãi là nó có thực và đầy quyền uy. “Đến đây,” hắn nói, vẫn với giọng lạnh lùng và rành rọt. “Ngươi đã mệt và đói sau cuộc hành trình rồi. Ta đã dọn bữa tối cho ngươi.” Cử chỉ của hắn hòa nhã, thậm chí có thể nói là lịch sự, những viên đá quý trên các ngón tay thô kệch trắng nhợt lóe lên.
Tôi nhìn thấy một cái bàn gần lò sưởi, bày la liệt những đĩa thức ăn được đậy kín. Bấy giờ tôi mới ngửi thấy mùi đồ ăn - đồ ăn ngon, có thực và của con người - và mùi thơm đó khiến tôi muốn ngất đi. Dracula yên lặng đi đến bàn, rót từ một cái bình cao cổ ra một ly thứ nước màu đỏ mà tôi thoáng nghĩ là máu. “Đến đây,” hắn lặp lại, giọng nhẹ nhàng hơn. Hắn bước ra xa bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế của mình, dường như cho là tôi chắc sẽ bước đến gần bàn nếu hắn giữ chút khoảng cách. Tôi ngập ngừng đi đến chiếc ghế trống bên cạnh bàn, chân run rẩy vì hoàn toàn suy nhược cũng như vì sợ hãi. Tôi ngồi xuống giữa những tấm nệm màu đen, gần như là gục xuống, và nhìn vào những đĩa thức ăn. Tôi tự hỏi tại sao mình lại thèm ăn trong khi có thể chết bất cứ lúc nào. Đó là một điều bí ẩn mà chỉ cơ thể tôi mới hiểu nổi. Lúc này Dracula đang nhìn chăm chăm vào ngọn lửa; tôi có thể nhìn từ mặt bên gương mặt hung ác của hắn, cánh mũi dài và chiếc cằm bạnh, mái tóc quăn đen phủ xuống bờ vai. Hắn chắp tay lại, vẻ trầm tư, áo choàng và hai tay áo thêu tụt xuống, để lộ cổ tay chiếc áo nhung màu xanh lá và một vết sẹo lớn choán gần hết mu bàn tay. Thái độ của hắn bình thản và trầm tĩnh; tôi bắt đầu cảm thấy như mình đang mơ chứ không phải đang cận kề với hiểm nguy, vậy nên tôi đánh liều mở nắp vài đĩa thức ăn.
Đột nhiên tôi cảm thấy đói đến độ tưởng như không thể kiềm chế khỏi hành động ăn ngốn ngấu bằng cả hai tay, nhưng tôi đã cố cầm cái nĩa kim loại và con dao sừng lên và xẻ món gà rán trước, sau đó là một tảng thịt thú rừng màu đen. Có các tô sứ chứa đầy khoai tây và cháo, một ổ bánh mì cứng và một tô đầy xúp rau nóng. Tôi ăn ngấu nghiến, chỉ cố phanh lại đủ để không bị co thắt dạ dày. Tôi nốc cạn chiếc ly bạc đầy rượu vang đỏ bên cạnh khuỷu tay, loại rượu mạnh, không phải máu. Dracula không hề cựa quậy suốt thời gian tôi ăn, dù tôi không thể ngăn mình cứ liên tục liếc nhìn về phía hắn. Ăn xong, trong một lúc lâu tôi thấy mình thỏa mãn và hầu như đã sẵn sàng để chết. Tôi nghĩ phải chăng đây là lý do người sắp bị xử tử được cho ăn bữa ăn cuối cùng. Đó là ý nghĩ rõ ràng đầu tiên của tôi từ khi tỉnh lại trong cỗ quan tài đá. Tôi chậm rãi đậy những đĩa thức ăn trống trơn lại, cố không gây tiếng động, rồi dựa vào ghế, chờ đợi.
Một lúc lâu sau, người đồng hành của tôi mới xoay người trên ghế. “Ngươi đã ăn xong,” hắn khẽ lên tiếng. “Vậy có lẽ chúng ta có thể trò chuyện một chút, và ta sẽ cho ngươi biết lý do vì sao ta đưa ngươi đến đây.” Giọng hắn vẫn rõ ràng và lạnh tanh, nhưng lần này tôi để ý thấy trong sâu thẳm giọng nói ấy tiếng lách tách nho nhỏ, tựa như bộ phận cơ thể tạo ra nó đã quá cũ kỹ và rách nát. Hắn ngồi nhìn tôi với vẻ trầm ngâm, và tôi cảm thấy mình co rúm lại trước ánh nhìn của hắn. “Ngươi có biết mình đang ở đâu không?”
Tôi đã hy vọng không phải trò chuyện với hắn, nhưng lại cảm thấy chẳng ích gì khi giữ im lặng, điều đó chỉ càng khuyến khích hắn dấn tới, mặc dù có vẻ như lúc này hắn tỏ ra khá bình thản. Tôi cũng chợt nghĩ, bằng cách thu hút sự chú ý của hắn, tôi có thể có một chút thời gian thăm dò chung quanh để tìm một lối thoát khả dĩ, hoặc tìm phương cách để tiêu diệt hắn, nếu tôi có thể giữ vững tinh thần thì biết đâu có thể hoàn thành cả hai việc một lúc. Nếu truyền thuyết chính xác thì bây giờ hẳn phải là ban đêm, nếu không hắn đã không thức. Rồi trời cũng sẽ sáng, và nếu tôi còn sống để thấy bình minh, hắn sẽ phải ngủ trong khi tôi vẫn thức.
“Ngươi có biết ngươi đang ở đâu không?” hắn lặp lại, không hề tỏ ra nóng nảy.
“Biết,” tôi trả lời. Tôi không biết phải gọi hắn bằng danh xưng nào. “Ít nhất là tôi cũng nghĩ mình biết. Đây là hầm mộ của ông.”
“Một trong các hầm mộ của ta.” Hắn mỉm cười. “Dù sao chăng nữa, đây là ngôi mộ ưa thích nhất của ta.”
“Có phải chúng ta đang ở xứ Wallachia không?” Tôi không thể ngăn mình bật ra câu hỏi đó.
Đoạn hắn quay qua nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt uyên thâm đầy những kiến thức cổ xưa rực sáng, đôi môi đỏ nhếch lên. Tôi chợt nghĩ nếu không bị méo mó bởi quá nhiều thù hận thì gương mặt đó hẳn phải là một gương mặt vô cùng thông minh sáng láng. Tôi cố không để mình trở nên yếu đuối, không chạy ngay đến bên hắn, quỳ xuống trước mặt hắn, đặt mình dưới sự sai bảo của hắn. Hắn là một lãnh tụ, là một đấng quân vương. Hắn không chịu được sự xúc phạm. Tôi dồn hết yêu thương với những thứ mình đã từng có trong đời để thốt lên một câu trả lời chắc nịch. “Không bao giờ.”
Gương mặt hắn đầy kích động, tái nhợt, mũi phập phồng và mép giật giật liên hồi. “Giáo sư Rossi ạ, chắc chắn ngươi sẽ chết ở chốn này,” hắn gằn giọng như cố chế ngự giọng nói của mình. “Ngươi sẽ không bao giờ sống sót mà rời khỏi những căn phòng này, dù ngươi sẽ ra khỏi nơi này dưới một cuộc sống mới. Tại sao ngươi lại không chọn lựa nhỉ?”
“Không,” tôi cố gắng nói bằng giọng càng nhẹ nhàng càng tốt.
Hắn đứng dậy, vẻ đe dọa, rồi cười gằn. “Vậy thì ngươi vẫn sẽ phải làm việc cho ta dù không muốn,” hắn gầm gừ. Bóng tối bắt đầu trùm lên trước mắt tôi, và tôi cố giữ chút - cái gì thế nhỉ? Da tôi bắt đầu râm ran ngứa ngáy, mắt nổ đom đóm. Khi hắn bước đến gần hơn, tôi mới nhìn thấy gương mặt thật của hắn, một gương mặt khủng khiếp đến độ giờ đây tôi không thể nào nhớ lại - dù đã cố. Sau đó, tôi không biết gì nữa, trong một thời gian dài.
Tôi tỉnh dậy trong cỗ quan tài đá của mình, trong bóng tối, và lại nghĩ đây là ngày đầu tiên, lần đầu tiên tỉnh dậy ở nơi ấy, cho đến lúc nhận ra tôi đã biết ngay mình đang ở đâu. Lần này tôi yếu hơn, yếu hơn rất nhiều, vết thương trên cổ lại phập phồng và rỉ máu. Tôi đã mất máu, nhưng không nhiều đến mức trở thành hoàn toàn bất lực. Một lúc sau, tôi cố sờ soạng chung quanh, run rẩy leo ra khỏi cái nhà tù của mình. Tôi nhớ lại khoảnh khắc mình bị bất tỉnh. Qua ánh sáng của những ngọn nến còn lại, tôi thấy Dracula lại đang ngủ trong ngôi mộ của hắn. Hai mắt hắn vẫn mở thao láo vô hồn, môi đỏ rực, tay nắm chặt dao găm - tôi quay đi trong nỗi sợ hãi tột độ cả về thể xác lẫn tâm hồn và đến ngồi bên cạnh lò sưởi, cố nuốt trôi đồ ăn tôi thấy ở đó.
Dường như hắn có ý định hủy hoại tôi dần dần, có lẽ để mở cho tôi cơ hội chọn lựa đến giây phút cuối cùng đề nghị mà hắn đã đưa ra tối qua, để tôi có thể tự nguyện toàn tâm toàn lực phục vụ hắn. Hiện tại, tôi chỉ còn một mục tiêu - không, hai mục tiêu chứ: chết khi tinh thần càng nguyên vẹn càng tốt với hy vọng sau này có thể hạn chế được phần nào những hành vi khủng khiếp mà tôi sẽ thực hiện khi trở thành ma cà rồng, và cố sống sót đủ lâu để ghi lại tất cả những gì có thể trong bản tường thuật này, dù có lẽ nó sẽ tan thành tro bụi mà vẫn chưa được ai đọc đến. Những ước nguyện này là điều duy nhất vực dậy tinh thần tôi lúc này. Đó là một số phận quá cay đắng mà tôi không còn đủ sức để khóc than.
Ngày Thứ Ba
Tôi không còn cảm nhận rõ ràng về ngày tháng nữa; tôi bắt đầu cảm thấy có lẽ một số ngày khác đã trôi qua, hoặc tôi đã mơ mơ tỉnh tỉnh nhiều tuần qua, hay tôi bị bắt mang đi đã một tháng rồi. Nhưng dù sao chăng nữa, đây là lần thứ ba tôi ngồi viết. Tôi đã bỏ cả ngày để khảo sát thư viện, không phải để hoàn thành cái tham vọng thiết lập danh mục cho thư viện này của Dracula, mà là để biết thêm bất kỳ thứ gì hữu ích cho bất cứ ai - nhưng xem ra đó là một nỗ lực vô vọng. Hôm nay, tôi chỉ ghi lại khám phá rằng Napoleon đã cho ám sát hai tướng lĩnh của mình trong năm đầu tiên lên ngôi hoàng đế, những cái chết tôi chưa từng thấy được ghi vào sổ sách nào cả. Tôi cũng xem xét kỹ một cuốn sách ngắn của Anna Comnema, sử gia Byzantine, tựa đề “Phương pháp tra tấn được hoàng đế chuẩn thuận vì lợi ích của nhân dân” - nếu tiếng Hy Lạp của tôi chuẩn xác. Tôi cũng tìm thấy trong khu vực thuật giả kim một cuốn sách pháp thuật được minh họa tuyệt đẹp, có lẽ là của xứ Ba Tư. Giữa các ngăn kệ chứa bộ sưu tập về các dòng dị giáo, tôi bất chợt bắt gặp một văn bản về Thánh John của Giáo hội Byzantine, nhưng có điều gì đó không ổn ngay từ phần đầu văn bản - nó nói về sự u ám tăm tối chứ không phải sự trong sáng. Tôi sẽ xem kỹ lại văn bản này sau. Tôi cũng phát hiện ra một cuốn sách tiếng Anh xuất bản từ năm 1521 - niên đại được ghi như vậy - có tên là Triết lý về sự sợ hãi, một tác phẩm về vùng Carpates mà tôi chỉ nghe nói và đã đinh ninh là không còn tồn tại.
Tôi đã quá mệt mỏi và tơi tả, không thể nghiên cứu những cuốn sách này theo như khả năng của tôi - hay đúng ra là như nhiệm vụ của tôi - nhưng mỗi khi nhìn thấy một thứ mới lạ tôi vẫn cứ háo hức cầm lên, quên bẵng tình trạng hoàn toàn vô vọng của mình ở chốn này. Giờ thì tôi phải chợp mắt một lát, trong lúc Dracula vẫn đang ngủ, để có thể đối mặt với thử thách sắp đến, bất chấp đó là thử thách gì.
Ngày Thứ Tư?
Tôi cảm thấy tinh thần bắt đầu suy sụp; cố gắng hết sức tôi cũng không thể theo dõi thời gian một cách chính xác hoặc tiếp tục nghiên cứu cái thư viện kia. Hôm nay tôi cảm thấy mình không chỉ quá yếu mà còn bệnh nữa, tình trạng đó càng làm tôi thấy khổ sở hơn. Tôi đang xem một cuốn sách về tra tấn trong khu lưu trữ độc nhất vô nhị của Dracula thì thấy trong một cuốn sách tiếng Pháp khổ tư xinh xắn mẫu thiết kế một cái máy chặt đầu, có thể chặt đầu người một cách nhanh chóng và gọn gàng. Có một bản khắc vẽ minh họa cái máy đó - các bộ phận máy, người đàn ông ăn mặc lịch sự cùng cái thủ cấp đã bị chặt tách rời khỏi thân hình. Khi nhìn mẫu thiết kế đó, tôi không chỉ cảm thấy kinh tởm công dụng của nó, không chỉ ngạc nhiên về tình trạng hoàn hảo của cuốn sách, mà bất chợt còn thèm muốn được chứng kiến cảnh tượng có thực, được nghe tiếng hò reo của đám đông và nhìn thấy dòng máu phụt ra trên ngực áo viền đăng ten và tấm áo khoác nhung kia. Sử gia nào cũng trải qua nỗi khao khát muốn nhìn thấy cảnh thực tại của quá khứ, nhưng đây là một cái gì đó mới lạ, một loại thèm khát khác hẳn. Tôi ném cuốn sách qua một bên, gục cái đầu nhức bưng bưng xuống bàn, và lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu cuộc sống bị giam cầm, tôi bật khóc. Thực ra, đã nhiều năm rồi tôi chưa hề khóc, chưa phải nhỏ giọt nước mắt nào sau đám tang mẹ tôi. Vị mặn của những giọt nước mắt làm tôi cảm thấy được an ủi đôi chút - vì nước mắt mặn là chuyện bình thường.
Ngày…
Gã quái vật kia cứ ngủ, suốt cả ngày hôm qua hắn không thèm nói gì, chỉ hỏi tôi công việc lập danh mục đang tiến hành thế nào rồi bỏ ra vài phút để xem xét công việc của tôi. Hiện tại tôi quá mệt để có thể tiếp tục nhiệm vụ, hoặc thậm chí đánh máy chữ nhiều hơn. Tôi sẽ ngồi trước lò sưởi và cố tìm lại một chút con người xưa cũ của mình.
Ngày…
Đêm qua, tựa như chúng tôi vẫn còn giữ cách đối xử như những người văn minh lịch sự với nhau, hắn lại bảo tôi ngồi trước lò sưởi và cho biết hắn sắp dời thư viện, sớm hơn dự định ban đầu, vì một mối đe dọa nào đó đang cận kề. “Đây là đêm cuối cùng của ngươi, sau đó ta sẽ để ngươi ở đây một thời gian ngắn,” hắn nói, “nhưng ngươi phải đến chỗ ta khi ta gọi. Lúc ấy, ngươi có thể tiếp tục lại công việc tại một địa điểm mới an toàn hơn. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc đưa ngươi trở lại với thế giới. Để tâm mà nghĩ xem ngươi có thể mang về cho ta những ai để giúp đỡ sứ mạng của chúng ta. Bây giờ, ta sẽ giấu ngươi vào một nơi mà không ai có thể tìm thấy, dù trong bất cứ trường hợp nào.” Hắn cười, nụ cười như làm cho mắt tôi mờ đi, vì vậy tôi cố nhìn vào ngọn lửa. “Ngươi rất ngoan cố đấy. Có lẽ ta sẽ ngụy trang ngươi thành di hài của thánh.” Tôi chẳng thèm hỏi hắn có ý gì khi nói vậy.
Như vậy, chỉ còn là vấn đề thời gian, thời gian rất ngắn, trước khi hắn kết thúc cuộc sống có sinh có tử của tôi. Bây giờ, tôi dồn tất cả năng lượng để củng cố bản thân cho đến những giây phút cuối cùng. Tôi cẩn thận không nghĩ đến những người thân yêu với hy vọng sẽ ít nghĩ về họ trong trạng thái ghê tởm sắp tới của mình. Tôi sẽ giấu tập giấy ghi chép này vào cuốn sách đẹp nhất tôi tìm thấy ở đây - một trong số ít tác phẩm ở thư viện này không gây ra cho tôi một cảm giác vừa thích thú vừa kinh tởm - và tôi cũng sẽ giấu cuốn sách ấy, để nó không còn thuộc về cái kho lưu trữ này nữa. Ước gì tôi có thể để thân xác mình trở thành tro bụi cùng với nó. Tôi cảm nhận thấy hoàng hôn sắp buông xuống, đâu đó bên ngoài cái thế giới mà ánh sáng và bóng tối vẫn còn hiện hữu kia, và tôi sẽ sử dụng tất cả tàn lực để vẫn là chính mình cho đến khoảnh khắc cuối cùng. Tôi đang khơi gợi mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống, trong lịch sử, trong quá khứ của riêng tôi. Tôi khơi gợi chúng với tất cả niềm đam mê mà tôi đã sống cùng.
Chú thích:
1. Machiavelli Niccoio (1469 - 1527): sử gia, triết gia, chính trị gia người Ý; ông viết nhiều tác phẩm về nghệ thuật lãnh đạo và cai trị, trong đó cuốn Quân Vương - The Prince (1532) có ảnh hưởng rất lớn đối với thời đại đó cũng như các thời đại sau này.
2. Thomas Aquinas (1225 - 1274): triết gia, nhà thần học và cũng là tu sĩ người Ý, được phong thánh thuộc dòng Dominique.
3. Hannibal (247 - 183 TCN): một danh tướng người Phoenicia, thuộc vương quốc cổ đại Carthage, nay là khu vực phụ cận của Tunis, thủ đô nước Tunisia, Bắc Phi.
4. Đời chiến đấu của tôi, tác phẩm dạnh hồi ký của Hitler.
5. Nguyên văn: Reign of Terror, ám chỉ cuộc Cách mạng Pháp (09/1793 - 07/1794, trong đó hàng ngàn người dân vô tội đã bị xử tử với tội danh kẻ thù của Cách mạng.)