[Việt Nam] Giọt Máu Chung Tình
Chương 10 : Chốn lương trình anh hùng từ biệt, Lời trân trọng thục nữ khuyên lơn
Ngày đăng: 22:52 27/05/20
Bạch Thu Hà xem rồi, thơ thẩn vào ra, nghĩ cuộc tơ duyên xăng xích chưa xong, nay lại thêm mối dây sầu bận bịu. Kế tối, tiểu thơ và thể nữ dắt nhau ra lương đình, thì đã thấy Đông Sơ đứng chực ngoài hoa viên, tiểu thơ biểu thể nữ Xuân Đào ra mời, Đông Sơ vội vã bước vào chào tiểu thơ và nói:” Hôm nay tôi muốn gặp tình khanh đặng ngõ ít lời tâm sự, ngày mai nầy thì chúng ta phải phân cách nhau, kẻ bắc người nam, chưa biết chừng nào mới đặng trùng phùng tái hội, tôi nghĩ mà buồn cho con tạo hóa trớ trêu, gạt gẫm lòng người rất nhiều điều gay gắt. Đã khiến cho đôi ta tơ tình vương vấn, chưa vui sum hiệp lương duyên, bỗng chốc lại làm cho oanh yến lạc bầy, phân chia nam bắc, vì vậy nên tôi đến mà tỏ chút niềm riêng, Tình khanh ôi! Và xin tình khanh giữ dạ đá vàng mà nhớ lời ước thệ trăm năm, cho bằng lòng kẻ chơn trời mặt biển.”
Tiêu thơ nói: “Lang quân ôi! Đôi ta đã gieo lời thệ ước rằng: đem duyên tơ tóc mà kết một giải đồng, thì dẫu cho cách xa nhau vạn thủy thiên sơn, cũng giữ gìn một lòng thiết thạch, ví dầu lâm tai ngộ biến thế nào, cũng chẳng dám dời lòng đổi dạ, sự thương yêu của đôi ta đây, đã đúc ra một khối ái tình rất chắc chắn nặng nề, dẫu mài cũng chẳng mòn, mà đập cũng không bể.
Song cái khối tình ấy chưa có dịp chi mà tỏ ra lời nói và việc làm cho thấy rõ ràng trước mắt, thế thì ngày nay kẻ đấng tạo hóa kia muốn đem cái trường ly sầu biệt hận nầy, mà ướm thử lòng chúng ta, đặng xem cho biết ai là người bền dạ chặt lòng; và ai là kẻ vong tình phụ nghĩa.
Vậy ta chẳng nên hờn trách tạo hóa rằng trớ trêu muốn đem chuyện khó khăn mà phỉnh phờ lòng người dương thế; ta phải nống trí với càn khôn, kình gan cùng tuế nguyệt, đặng để mà xem thử lòng nhau, thì ngày kia sẽ biết; nếu lấy một giọt nước mắt bi ai, cùng một ít lời tư thiết, mà gọi rằng thương yêu nhau, thì tôi tưởng chẳng khác chi đám nhi nữ thường tình, mà làm cho anh hùng đãng khí, thì tôi không hề làm đặng.
Khi tôi đọc thơ lang quân rồi, thì các sự buồn bả đã xăng văng xúm xít, áp lại mà thầm thỉ cằn nhằn trong ruột gan tôi; dường như phàn nàn cùng tôi rằng! Thảm thay! Cho nhơn duyên trắc trở, mới hiệp rồi tan, mới gần rồi cách, làm cho kẻ ở người đi, mà phải xèo gan héo ruột. Cái sự buồn ấy làm cho tôi phải quảy một gánh tư tưởng nặng nề nơi vai, mà xem ngày dường đêm, xem tháng dường năm, xem ngày vui kia vắn chẳng đầy gang; còn ngày buồn nầy lại dài hơn muôn ngàn dặm cách.
Cái buồn ấy làm cho tôi xem đến nước non hoa cỏ, thì thấy xũ lá phai màu, xem đến phong cảnh trăng mây, thì thấy xơ rơ lờ lạc. Cái cảnh tình ấy dường như thấy tôi buồn, thì xúm lại mà phân phiền chia thảm cùng tôi. Nhưng mà trước mặt lang quân đây, tọi đã dấu giếm cái sự buồn ấy vào lòng, chẳng muốn để nó tràn ra ngoài nét mày sắc mặt, mà làm cho bịu nước bước anh hùng, và cũng chẳng muốn để cho nó lộn theo câu chuyện giọng tình, mà cản trở con đường nghĩa vụ.
Cái phận sự chúng ta đây phải thương tưởng Việt Nam như cha mẹ. trìu mến Việt Nam như vợ chồng. Chúng ta nhờ ngọn rau tấc đất của Việt Nam mà đặng khôn lớn trưởng thành, chúng ta nhờ cái phong thổ nước non Việt Nam mà đặng an cư lạc nghiệp, nay lang quân là con trai của Việt Nam, ra mà gánh vác một phần nghĩa vụ của nước non trên vai. Vậy thì tôi xin để một cái danh giá trượng phu rỡ ràng cho lang quân, tôi muo6na để cho lang quân thong thả mà làm trai Việt Nam cho rõ mặt phi thường, đặng để chút phương danh nơi lịch sử, như thế thì tôi cũng đặng lãnh một chút danh giá tốt của gái Việt Nam, và làm một gương nội trợ cho bọn quần xoa nữ giới.”
Đông Sơ nghe tiểu thơ bàn luận mấy điều, thì càng đem lòng yêu thương kính phục mà đáp lại rằng: “Tình khanh ôi! Những lời của tình khanh phân trần nghị luận; làm cho tôi thấy một lý tưởng rất đích đáng cao kỳ, tình khang tuy là một cái lốt quần vận yếm mang, liễu bồ nhược chất mặc dầu, nhưng mà cái phẩm hạnh khẳng khái thông minh, biết nghị luận sự lợi hại hơn thua với chồng, và biết tới sự đối đãi với nước nhà giòng giống; như vậy mới là một người đờn bà tề gia nội trợ, và đáng mặt một phẩm giá của con nhà phiệt diệt trâm anh, chớ chẳng phải như bọn gái hạ lưu kia, ngơ ngẩn hững hờ, chẳng biết cái tình nghĩa cách thức đối đãi với chồng thể nào, cho ý tứ thâm trầm, chẳng biết chấn chỉnh việc gia đình thế nào, cho vẻ viên hòa nhã. Xem cái phận sự nội trợ lỏng lẻo như đồ chơi, xem cái luân lý can thường của vợ chồng, như tuồng qua đường trăng gió; lãng lãng lơ lơ, ngơ ngơ ngửng ngửng, chỉ biết đem cả cái đời thật thà mà xẩn bẩn theo xó bếp núc kia, ngỡ là sự kiến thức theo trách cá nồi cơm, bồng con vá áo, bấy nhiêu thì gọi rằng đủ, lại có kẻ tập theo thói hư hèn lãng phí, chỉ biết mơn trớn theo mấy cây bài, đem cả tên tuổi ngày giờ quí báu kia mà chôn vào mấy sòng cờ bạc, chẳng biết nghĩ đến cái giọt mồ hôi trong huyết mạch của chồng, chảy ra đã lắm khi lao tâm khổ tứ.
Xét lại những đờn bà như thế, thì ai cho rằng đứng bực nữ lưu không noan, và ai dùng làm kẻ tề gia nội trợ cho đặng.
Nay tôi nghĩ cho tôi lấy làm hạnh phước, gặp đặng tình khanh đây, và nghe những lời châu ngọc của tình khanh, từ lý thâm trầm, dẫu mà tôi xa cách bao nhiêu non nước quan hà thì tôi cũng vui lòng nơi chốn hải dốc thiên nhai, và tôi sẽ khẩn vái với cao dày, cho cái mảnh hình hài nầy mạnh giỏi trong cơn mũi đạn lằng tên, đặng giữ một lòng chung thĩ với tình khanh, mà xem cơ tạo hóa đổi dời đến thế nào cho biết.”
Đông Sơ nói rồi gieo mình ngồi nơi ghế, còn tiểu thơ mắt ngó lơ là ra hoa viên, hai người đều lẳng lặng làm thinh một hồi, không nói chi hết. Kế Đông Sơ ghé mắt ngó lại tiểu thơ, thì thấy hai tròng thu ba, đã rưng rưng giọt lụy, chảy xuống đọng trên hai gò má hồng nhan, dường như hột sương mai đọng cánh hoa đào, nháp nhán như hột châu đeo má phấn.
Đông Sơ liền kêu tiểu thơ mà hỏi rằng: “Nầy tình khanh! Tình khanh mới nói cùng tôi rằng sự khóc lóc là đám nhi nữ thường tình; sao bây giờ tôi xem tình khanh đã rưng rưng hai hàng lụy ngọc đó vậy?”
Tiểu thơ day lại mỉm cười và đáp rằng: “Lang quân có biết cái giọt nước mắt nầy là nước mắt gì chăng?”
Đông Sơ nói: “Tình khanh ôi! Nước mắt ấy là:
Nước mắt thuyền quyên trong biển ái.
Đau lòng ly hận giọt tình rơi.
Có phải vậy chăng?”
Tiểu thơ nghe rồi lắc đầu mà đáp rằng: “Lang quân ôi! Lang quân nói câu trên thì nghe cũng mỉa mai, nhưng mà câu dưới thì chưa nhằm ý thiếp.
Nước mắt nầy là nước mắt, thương người đởm đương nghĩa vụ cực cho thân, lội lặn góc phương trời; nước mắt nầy là nước mắt: cám kẻ khẳng khái trượng phu, vì việc nước, xông pha lằng khói đạn. Chớ nào phải nước mắt ly sầu biệt hận của phụ nữ thường tình, để mà cản anh hùng trong lúc lên đường nghĩa vụ đó đâu. Vậy xin lang quân hãy xem cho rõ.”
Đông Sơ nghe nói rồi thì bước lại ôm tiểu thơ vào lòng, và kề miệng nơi hai má đào non, là chỗ hột lụy đương rơi, mà hun cách thương yêu thân thiết, rồi đứng nhìn mặt tiểu thơ mà nói rằng:
“Tình khanh ôi! Cái hun nầy làm cho tôi hít đặng mùi thơm tho nơi má hồng nhan, mà phì gan nở ruột, cái giọt nước mắt trong mạch ái tình chảy ra đây, tôi nếm vào rất nặng lòng thấm dạ, dẫu cho vàng trăm thoi, bạc ngàn lượng, cũng không mua cái giọt nước mắt thuyền quyên, rất tình tứ thâm trầm nầy đặng.”
Đó rồi tiểu thơ bước lại bàn lấy gói áo đưa cho Đông Sơ mà rằng: “Vậy đương lúc đông thiên lạnh lẽo, gió tuyết mưa sương, xin lang quân lấy áo hồ cừu nầy là áo của tôi để ngự hàn, đặng đem theo mà mặc cho đỡ khi sương tuyết lạnh lùng, và lang quân thấy nó cũng như thấy tôi. Xin lang quân hãy bảo trọng thân danh; nơi chốn hải giác thiên nhai, tôi sẽ thường đêm, bái phật khẩn thần cho lang quân thuyền khai đắc thắng, pháo phát thành công, cho chức vụ hoàn toàn, đặng mau trở gót quan hà, tôi sẽ hầu chén tẩy trần, mà đợi lúc khải hoàn hậu hội.”
Kế đó Đông Sơ lấy áo hồ cừu choàng trên vai, rồi từ giã tiểu thơ, mở cửa lương đình bước ra, thì thấy gương ô đà lấp ló vừng đông, bóng hồn đã rựng theo chót núi. Khi Đông Sơ về đến lữ quán rồi, sắm sửa hành lý ra tỉnh Hải Dương, lãnh một đội chiến thuyền và thủy ninh, đi dẹp quân Hải khấu, Trung Quốc.”
Tiêu thơ nói: “Lang quân ôi! Đôi ta đã gieo lời thệ ước rằng: đem duyên tơ tóc mà kết một giải đồng, thì dẫu cho cách xa nhau vạn thủy thiên sơn, cũng giữ gìn một lòng thiết thạch, ví dầu lâm tai ngộ biến thế nào, cũng chẳng dám dời lòng đổi dạ, sự thương yêu của đôi ta đây, đã đúc ra một khối ái tình rất chắc chắn nặng nề, dẫu mài cũng chẳng mòn, mà đập cũng không bể.
Song cái khối tình ấy chưa có dịp chi mà tỏ ra lời nói và việc làm cho thấy rõ ràng trước mắt, thế thì ngày nay kẻ đấng tạo hóa kia muốn đem cái trường ly sầu biệt hận nầy, mà ướm thử lòng chúng ta, đặng xem cho biết ai là người bền dạ chặt lòng; và ai là kẻ vong tình phụ nghĩa.
Vậy ta chẳng nên hờn trách tạo hóa rằng trớ trêu muốn đem chuyện khó khăn mà phỉnh phờ lòng người dương thế; ta phải nống trí với càn khôn, kình gan cùng tuế nguyệt, đặng để mà xem thử lòng nhau, thì ngày kia sẽ biết; nếu lấy một giọt nước mắt bi ai, cùng một ít lời tư thiết, mà gọi rằng thương yêu nhau, thì tôi tưởng chẳng khác chi đám nhi nữ thường tình, mà làm cho anh hùng đãng khí, thì tôi không hề làm đặng.
Khi tôi đọc thơ lang quân rồi, thì các sự buồn bả đã xăng văng xúm xít, áp lại mà thầm thỉ cằn nhằn trong ruột gan tôi; dường như phàn nàn cùng tôi rằng! Thảm thay! Cho nhơn duyên trắc trở, mới hiệp rồi tan, mới gần rồi cách, làm cho kẻ ở người đi, mà phải xèo gan héo ruột. Cái sự buồn ấy làm cho tôi phải quảy một gánh tư tưởng nặng nề nơi vai, mà xem ngày dường đêm, xem tháng dường năm, xem ngày vui kia vắn chẳng đầy gang; còn ngày buồn nầy lại dài hơn muôn ngàn dặm cách.
Cái buồn ấy làm cho tôi xem đến nước non hoa cỏ, thì thấy xũ lá phai màu, xem đến phong cảnh trăng mây, thì thấy xơ rơ lờ lạc. Cái cảnh tình ấy dường như thấy tôi buồn, thì xúm lại mà phân phiền chia thảm cùng tôi. Nhưng mà trước mặt lang quân đây, tọi đã dấu giếm cái sự buồn ấy vào lòng, chẳng muốn để nó tràn ra ngoài nét mày sắc mặt, mà làm cho bịu nước bước anh hùng, và cũng chẳng muốn để cho nó lộn theo câu chuyện giọng tình, mà cản trở con đường nghĩa vụ.
Cái phận sự chúng ta đây phải thương tưởng Việt Nam như cha mẹ. trìu mến Việt Nam như vợ chồng. Chúng ta nhờ ngọn rau tấc đất của Việt Nam mà đặng khôn lớn trưởng thành, chúng ta nhờ cái phong thổ nước non Việt Nam mà đặng an cư lạc nghiệp, nay lang quân là con trai của Việt Nam, ra mà gánh vác một phần nghĩa vụ của nước non trên vai. Vậy thì tôi xin để một cái danh giá trượng phu rỡ ràng cho lang quân, tôi muo6na để cho lang quân thong thả mà làm trai Việt Nam cho rõ mặt phi thường, đặng để chút phương danh nơi lịch sử, như thế thì tôi cũng đặng lãnh một chút danh giá tốt của gái Việt Nam, và làm một gương nội trợ cho bọn quần xoa nữ giới.”
Đông Sơ nghe tiểu thơ bàn luận mấy điều, thì càng đem lòng yêu thương kính phục mà đáp lại rằng: “Tình khanh ôi! Những lời của tình khanh phân trần nghị luận; làm cho tôi thấy một lý tưởng rất đích đáng cao kỳ, tình khang tuy là một cái lốt quần vận yếm mang, liễu bồ nhược chất mặc dầu, nhưng mà cái phẩm hạnh khẳng khái thông minh, biết nghị luận sự lợi hại hơn thua với chồng, và biết tới sự đối đãi với nước nhà giòng giống; như vậy mới là một người đờn bà tề gia nội trợ, và đáng mặt một phẩm giá của con nhà phiệt diệt trâm anh, chớ chẳng phải như bọn gái hạ lưu kia, ngơ ngẩn hững hờ, chẳng biết cái tình nghĩa cách thức đối đãi với chồng thể nào, cho ý tứ thâm trầm, chẳng biết chấn chỉnh việc gia đình thế nào, cho vẻ viên hòa nhã. Xem cái phận sự nội trợ lỏng lẻo như đồ chơi, xem cái luân lý can thường của vợ chồng, như tuồng qua đường trăng gió; lãng lãng lơ lơ, ngơ ngơ ngửng ngửng, chỉ biết đem cả cái đời thật thà mà xẩn bẩn theo xó bếp núc kia, ngỡ là sự kiến thức theo trách cá nồi cơm, bồng con vá áo, bấy nhiêu thì gọi rằng đủ, lại có kẻ tập theo thói hư hèn lãng phí, chỉ biết mơn trớn theo mấy cây bài, đem cả tên tuổi ngày giờ quí báu kia mà chôn vào mấy sòng cờ bạc, chẳng biết nghĩ đến cái giọt mồ hôi trong huyết mạch của chồng, chảy ra đã lắm khi lao tâm khổ tứ.
Xét lại những đờn bà như thế, thì ai cho rằng đứng bực nữ lưu không noan, và ai dùng làm kẻ tề gia nội trợ cho đặng.
Nay tôi nghĩ cho tôi lấy làm hạnh phước, gặp đặng tình khanh đây, và nghe những lời châu ngọc của tình khanh, từ lý thâm trầm, dẫu mà tôi xa cách bao nhiêu non nước quan hà thì tôi cũng vui lòng nơi chốn hải dốc thiên nhai, và tôi sẽ khẩn vái với cao dày, cho cái mảnh hình hài nầy mạnh giỏi trong cơn mũi đạn lằng tên, đặng giữ một lòng chung thĩ với tình khanh, mà xem cơ tạo hóa đổi dời đến thế nào cho biết.”
Đông Sơ nói rồi gieo mình ngồi nơi ghế, còn tiểu thơ mắt ngó lơ là ra hoa viên, hai người đều lẳng lặng làm thinh một hồi, không nói chi hết. Kế Đông Sơ ghé mắt ngó lại tiểu thơ, thì thấy hai tròng thu ba, đã rưng rưng giọt lụy, chảy xuống đọng trên hai gò má hồng nhan, dường như hột sương mai đọng cánh hoa đào, nháp nhán như hột châu đeo má phấn.
Đông Sơ liền kêu tiểu thơ mà hỏi rằng: “Nầy tình khanh! Tình khanh mới nói cùng tôi rằng sự khóc lóc là đám nhi nữ thường tình; sao bây giờ tôi xem tình khanh đã rưng rưng hai hàng lụy ngọc đó vậy?”
Tiểu thơ day lại mỉm cười và đáp rằng: “Lang quân có biết cái giọt nước mắt nầy là nước mắt gì chăng?”
Đông Sơ nói: “Tình khanh ôi! Nước mắt ấy là:
Nước mắt thuyền quyên trong biển ái.
Đau lòng ly hận giọt tình rơi.
Có phải vậy chăng?”
Tiểu thơ nghe rồi lắc đầu mà đáp rằng: “Lang quân ôi! Lang quân nói câu trên thì nghe cũng mỉa mai, nhưng mà câu dưới thì chưa nhằm ý thiếp.
Nước mắt nầy là nước mắt, thương người đởm đương nghĩa vụ cực cho thân, lội lặn góc phương trời; nước mắt nầy là nước mắt: cám kẻ khẳng khái trượng phu, vì việc nước, xông pha lằng khói đạn. Chớ nào phải nước mắt ly sầu biệt hận của phụ nữ thường tình, để mà cản anh hùng trong lúc lên đường nghĩa vụ đó đâu. Vậy xin lang quân hãy xem cho rõ.”
Đông Sơ nghe nói rồi thì bước lại ôm tiểu thơ vào lòng, và kề miệng nơi hai má đào non, là chỗ hột lụy đương rơi, mà hun cách thương yêu thân thiết, rồi đứng nhìn mặt tiểu thơ mà nói rằng:
“Tình khanh ôi! Cái hun nầy làm cho tôi hít đặng mùi thơm tho nơi má hồng nhan, mà phì gan nở ruột, cái giọt nước mắt trong mạch ái tình chảy ra đây, tôi nếm vào rất nặng lòng thấm dạ, dẫu cho vàng trăm thoi, bạc ngàn lượng, cũng không mua cái giọt nước mắt thuyền quyên, rất tình tứ thâm trầm nầy đặng.”
Đó rồi tiểu thơ bước lại bàn lấy gói áo đưa cho Đông Sơ mà rằng: “Vậy đương lúc đông thiên lạnh lẽo, gió tuyết mưa sương, xin lang quân lấy áo hồ cừu nầy là áo của tôi để ngự hàn, đặng đem theo mà mặc cho đỡ khi sương tuyết lạnh lùng, và lang quân thấy nó cũng như thấy tôi. Xin lang quân hãy bảo trọng thân danh; nơi chốn hải giác thiên nhai, tôi sẽ thường đêm, bái phật khẩn thần cho lang quân thuyền khai đắc thắng, pháo phát thành công, cho chức vụ hoàn toàn, đặng mau trở gót quan hà, tôi sẽ hầu chén tẩy trần, mà đợi lúc khải hoàn hậu hội.”
Kế đó Đông Sơ lấy áo hồ cừu choàng trên vai, rồi từ giã tiểu thơ, mở cửa lương đình bước ra, thì thấy gương ô đà lấp ló vừng đông, bóng hồn đã rựng theo chót núi. Khi Đông Sơ về đến lữ quán rồi, sắm sửa hành lý ra tỉnh Hải Dương, lãnh một đội chiến thuyền và thủy ninh, đi dẹp quân Hải khấu, Trung Quốc.”